Nếu tính cho tới ngày 19 tháng 6 năm 1988, thì lễ tôn phong 117 vị thánh tử đạo Việt Nam phải kể là đông nhất Tuy nhiên, số kỷ lục này đã bị phá vào năm 2000, với việc tôn phong 120 vị thánh tử đạo Trung hoa.
Như vậy ngày nay, nước Trung hoa có đông số tử đạo nhất phải không?
Tuỳ theo cách tính, nghĩa là nếu chỉ tính các hiển thánh không mà thôi, hay tính cả các chân phước nữa; và nếu chỉ tính những vị được đặt lên bàn thờ dưới triều đại của đức Gioan Phaolô II hay phải tính cả những vị được tôn phong dưới các triều đại trước nữa. Thực vậy nếu chỉ tính con số các vị hiển thánh mà thôi, thì các thánh Trung hoa đứng hàng đầu. Còn nếu tính cả các chân phước nữa thì Nhật bản còn đông hơn, với 42 hiển thánh và 205 chân phước (cộng lại là 247 vị). Trong số này chỉ có 16 vị là do Đức Gioan Phaolô II phong thánh vào năm 1987 (nghĩa là một năm trước các thánh Việt Nam), số còn lại được phong dưới triều đức Piô IX vào những năm 1862 và 1867.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thích phong thánh tử đạo lắm, phải không?
Không biết nên hiểu “thích” hay “không thích” theo nghĩa nào! Theo số thống kê chính thức về các lễ nghi phụng vụ, thì con số các vị tử đạo chiếm một tỉ lệ rất cao trong hàng ngũ các vị chân phước và hiển thánh được tôn phong: 1032 chân phước tử đạo (so với 306 vị không tử đạo); và 402 vị thánh tử đạo (so với 80 vị thánh không tử đạo). Dù sao đừng nên quên là các vị thánh tử đạo thì có thể tôn phong cả nhóm đông (như trường hợp Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên, với con số hơn 100 vị), điều này không thể xảy ra cho các vị thánh không tử đạo (chẳng hạn không thể phong thánh cho cả một tu viện hay một hội dòng). Tuy nhiên, thiết tưởng chúng ta đừng nên dừng lại ở con số thống kê mà thôi, nhưng hãy đi tìm hiểu ý nghĩa của việc phong thánh tử đạo. Đức Gioan Phaolô II đã phát triển cả một nền thần học về ý nghĩa của việc tử đạo trong nhiều văn kiện (thông điệp, tông thư), và cách riêng trong các bài giảng nhân dịp lễ phong thánh, mở rộng nhiều viễn tượng mới. Tử đạo là gì, chị biết không?
Tử đạo có nghĩa là chết vì đạo.
Đúng thế, nhưng đó là dựa theo từ ngữ Hán Việt “tử đạo”. Dĩ nhiên, người ta có quyền đặt vấn đề: “thế nào là chết vì đạo?” Đạo nào mà chẳng có người chết! Tuy nhiên, thay vì tranh luận về từ “đạo”, thì đức thánh cha muốn dựa trên từ ngữ được dùng trong nguyên gốc Hy-lạp “martys”, có nghĩa là “làm chứng”. Các thánh tử đạo làm chứng cho cái gì?
Làm chứng cho tinh thần bất khuất, can đảm không sợ chết.
Điều đó chỉ đúng một phần thôi. Bởi vì chúng ta đã quen ghép từ “tử đạo” với “anh hùng”, và liên tưởng tới ý chí mạnh mẽ của các ngài. Thánh Tôma Aquinô cũng coi việc tử đạo như một hành vi đặc trưng của nhân đức mạnh bạo. Tuy nhiên đức Gioan Phaolô II muốn đặt thần học về chứng tá trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Khi tuyên dương các vị tử đạo, phụng vụ tiên vàn chúc tụng Thiên Chúa đã ban sức mạnh cho các ngài, trước khi ca ngợi lòng dũng cảm của các vị. Nói khác đi, sự chứng tá anh hùng của các thánh là một hồng ân do tình thương mà Chúa ban. Đáp lại, các vị tử đạo muốn bày tỏ lòng yêu mến với Chúa qua việc dâng hiến mạng sống của mình cho Chúa. Thực ra đây cũng là tư tưởng đã gặp thấy nơi các thư của thánh Phaolô, khi ngài tuyên bố rằng mình muốn hoà đồng với Đức Kitô, Đấng đã hiến mạng sống mình để bày tỏ tình thương của Chúa Cha cho nhân loại, và đồng thời cũng muốn bày tỏ lòng yêu mến thi hành ý muốn của Chúa Cha. Đó là lý do vì sao các giáo phụ đã ca ngợi các vị tử đạo như là những Kitô hữu gương mẫu, bởi vì các ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của người tín hữu.
Nếu thế thì Đức Gioan Phaolô II chỉ lặp lại tư tưởng từ thời xưa chứ đâu có gì mới mẻ đâu?
Dĩ nhiên, Đức Thánh Cha phải dựa trên đạo lý của Kinh thánh và truyền thống, khi đề cao sự tử đạo như là một hồng ân của Chúa và là sự tuyên xưng lòng yêu mến đối với Chúa. Ta có thể gọi là chiều kích hướng Chúa (hay đối thần) của sự tử đạo. Điều mới mẻ của đức Gioan Phaolô II ở chỗ ngài còn thêm chiều kích nhân bản của việc tử đạo. Thường thì chúng ta chỉ nhìn các vị tử đạo như những con người dũng cảm bất khuất, và dĩ nhiên điều này cũng đúng thôi. Nhưng đức thánh cha còn muốn thêm nhiều suy tư khác, nhằm cho thấy các vị tử đạo làm chứng cho “giá trị làm người”: họ đã thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người hơn ai hết.
Tại sao vậy?
Bởi vì các ngài đã làm nổi bật các giá trị cao quý nhất của con người. Giá trị thứ nhất là chính sự sống. Vừa mới nghe điều này, có lẽ chúng ta thấy khó hiểu, bởi vì các vị tử đạo sẵn sàng hy sinh mạng sống, nghĩa là họ coi nhẹ mạng sống. Nhưng sự thực thì khác. Qua cái chết do lòng yêu mến Chúa, các vị tử đạo tuyên xưng rằng họ rất quý trọng sự sống vĩnh cửu (được đồng hoá với Đức Kitô). Họ hết sức tha thiết gắn bó với sự sống vĩnh cửu, cho nên họ cố gắng bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Giá trị nhân bản thứ hai mà các vị tử đạo chứng tá là phẩm giá con người. Phẩm giá của con người nằm ở chỗ nó có thể vượt lên trên chính mình để đạt đến Đấng Siêu Việt. Những đối thủ của các ngài ra như thách thức rằng chỉ có cuộc sống ở đời này mà thôi. Nhưng chủ trương như thế là hạ giá con người xuống ngang hàng với thú vật và cỏ cây. Không phải thế, giá trị của con người vượt quá tầm mức của thế giới hữu hình; và đó là điều khác biệt với loài súc vật và thảo mộc.
Những giá trị vừa nói vẫn còn mang tính cách siêu hình bởi vì liên quan đến Đấng Siêu Việt, chứ có gì là nhân bản đâu?
Câu trả lời tuỳ theo chúng ta hiểu tiếng “nhân bản” là gì. Dù sao, ngoài việc làm chứng tá cho mối tương quan với Đấng Siêu Việt, các vị tử đạo còn làm chứng cho các giá trị khác nữa, mà chắc chắn chị sẽ đồng ý là “nhân bản”. Trong số các chân lý này, Đức Gioan Phaolô II kể đến lòng cương trực bảo vệ chân lý. Trước khi bàn về một chân lý nào cụ thể, ta nên hiểu về lòng yêu mến chân lý. Các vị tử đạo đã khám phá ra một chân lý, và họ sống chết cho chân lý đó. Dĩ nhiên nhiều người sẽ nghĩ đến lòng trung thành với các chân lý đức tin, nhưng trong thông điệp Veritatis splendor (số 94), đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nhắc đến tấm gương của thánh Gioan Tẩy giả khi ông khẳng khái tố giác nếp sống của vua Hêrôđê là trái nghịch luân lý. Ông Gioan Tẩy giả là chứng nhân bất khuất cho chân lý về sự thánh thiện của hôn nhân, (hay cũng có thể nói là chứng nhân cho công lý). Và ông không chịu khuất phục trước quyền lực. Giá trị cao quý của con người nằm ở chỗ đó: sống trung thành với lương tâm của mình. Và chính ở điểm này mà các vị tử đạo tỏ ra là những con người tự do đích thực: tự do có nghĩa là chọn lựa đi theo chân lý, và không bị nao núng bởi sức ép của bạo lực.
Nhưng mà đâu phải chỉ có Kitô giáo mới có những người dám chết vì chân lý. Nhiều tôn giáo khác cũng có những người hy sinh vì đạo nghĩa. Nhiều nhà cách mạng cũng dám chết để tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia, hoặc để bênh vực những người bị đàn áp?
Dĩ nhiên, những người dám hy sinh mạng sống vì chính nghĩa không chỉ giới hạn trong số các tín đồ Kitô giáo. Họ có đáng gọi là tử đạo không? Tôi hy vọng sẽ trở lại đề tài này vào dịp khác. Hôm nay chúng ta chỉ nói đến quan điểm của đức thánh cha Gioan Phaolô II. Các ký giả đã ghi nhận rằng lần đi thăm Ấn độ vào ngày 1/2/1986, ngài đã đến viếng thăm mộ của Mahatma Gandhi, một người đã sử dụng phương pháp bất-bạo-động để tranh đấu giành độc lập cho quốc gia Ấn độ. Ông đã bị ám sát bởi một người đồng bào quá khích, chống lại chủ trương xoá bỏ các đẳng cấp. Đức Thánh Cha đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với Gandhi. Tuy ca ngơị ông Gandhi như là một người “tử đạo vì chân lý”, nhưng ngài không thể phong thánh cho ông được, bởi vì ông ta đâu phải là tín đồ Kitô giáo! Mặt khác, khi phong thánh cho cha Maximilianô Kolbe, một linh mục dòng Phanxicô đã tự nộp mình để thế mạng cho một tù nhân khác có gia đình khi ông bị quốc xã Đức kết án chết thiêu trong hỏa lò, đức thánh cha cho thấy rằng cha Kolbe không chỉ chứng tỏ lòng thương yêu bác ái dựa theo gương của Chúa Kitô Đấng đã hiến thân cho người thân yêu, nhưng còn làm chứng cho sự thật về công lý, bởi vì cha bênh vực cho một người vô tội bị kết án oan ức. Chắc chắn trên đời này những tấm gương tương tự có thể thấy ở ngoài Giáo hội công giáo. Đã hơn một lần, đức Gioan Phaolô II không chỉ dừng lại ở nhãn hiệu (xem có phải là người công giáo hay không công giáo), nhưng nhìn đến chân lý khách thể mà các vị đó làm chứng. Trong Năm thánh 2000, ngài đã tổ chức tại hí trường Côlôssê ở Rôma (vào ngày 7 tháng 5) một buổi lễ tưởng niệm tất cả các chứng nhân cho Tin mừng, dù là phần tử Giáo hội Công giáo, hay Chính thống, Tin Lành. Tất cả đều gặp nhau ở một điểm chung, là họ đã được thuyết phục bởi tình yêu Chúa Kitô, và làm chứng cho Tin Mừng của Người, một Tin mừng không chỉ bao gồm những chân lý về mầu nhiệm Thiên Chúa, mà còn bao gồm những chân lý về phẩm giá con người, về tình huynh đệ liên đới giữa nhân loại nữa. Hai khối đó không tách biệt nhau, bởi vì đức Kitô đã đến để mặc khải kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người, và đó chính là cốt yếu của phẩm giá con người, như công đồng Vaticanô II đã nói trong hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.
Nguồn tin: daminhvn.net
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn