THÁNH LỄ CUNG HIẾN NHÀ THỜ SÔNG HINH

Chúa Nhật Lễ Hiển Linh B

Thứ bảy - 06/01/2018 20:26
Tin mừng Mt 2: 1-12: Câu truyện ba nhà đạo sĩ đến tìm gặp Chúa Giêsu diễn tả việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại...
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh B

Học viện Piô Giáo hoàng  - Chú Giải 1 (theo mùa vọng năm A)


CÁC ĐẠO SĨ VÀ NGÔI SAO

(xem thêm chú Giải Phúc âm Năm B và C)

CÂU HỎI GỢI Ý 

1 Đâu là bối cảnh văn chương của trình thuật này. Mt muốn song đối chúa Giêsu với ai trong Tin Mừng thời thơ ấu của ông?

2. Cộng đoàn sơ khai có đã vấn đề về xuất xứ, dòng dõi của Chúa Giêsu không? Xem Ga 7,40-42.

3. Mt trích dẫn sấm ngôn Mica 5 với ít nhiễn thay đổi. Thay đổi này có lợi điểm gl và dụng ý thần học nào?

4. Mt và Lc, ai trong hai tác giả giúp ta xác định chắc hơn ngày giờ giáng sinh của Chúa Giêsu?

5. Truyền thống nói gì về con số, danh tánh, địa vị, xuất xứ của các đạo sĩ? Những quyết đoán như thế dựa trên cơ sở nào?

6. Niềm hy vọng một vì vua xuất thân từ xứ Giuđê phải chăng chỉ phổ biến trong Thánh Kinh và tại Palestin? 

7. Phải chăng ngôi sao là một hiện tượng thiên văn? Là hình ảnh văn chương nói về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân? Là ánh quang thường đi theo các cuộc thần hiệ? Hay nó liên hệ với một cái gì khác?

8. Đối với Mt, lễ vật của các đạo sĩ có ý nghĩa biểu tượng như truyền thống đã hiểu không?

Nếu tách riêng gia phả (Mt 1, 1-17) là một thứ nhập đề ra thì Tin Mừng thời thơ ấu trong Mt gồm có năm giai thoại được trình bày quy chiếu với 5 bản văn Cựu ước: việc hoài thai Chúa Kitô cách đồng trinh (Is 7,14), cuộc kính bái của các đạo sĩ (Mca 5, 1-3), việc trốn sang Ai-cập (Hs 11, 1), cuộc tàn sát hài nhi vô tội (Gr 31, 15) và việc trở về Nadarét với câu trích dẫn bí ẩn bảo là lấy từ sách ngôn sứ: "Người sẽ được gọi là Nazarêô").

Vì ở chỗ khác, Mt cũng gộp các lời của Chúa Kitô thành 5 bài giảng dài có cùng một công thức kết luận ("Và xảy ra là khi Chúa Giêsu đã nói xong các lời này, thì ... " 7,28 ; 11, 1 ; 13, 53; 19, 1 ; 26, 1), nên có kẻ phỏng đoán tác giả Tin Mừng thứ nhất đã chủ ý bắt chước tác giả Ngũ thư.

Hơn nữa, người ta đã khám phá được nhiều trùng hợp giữa thời thơ ấu của Chúa Giêsu theo như Mt kể, với thời thơ ấu của Môisen trong sách xuất hành và văn chương Midrash (văn chương chú giải Cựu ước của các giáo sĩ Do thái. Chú thích của người dịch). Việc chào đời của hai vị cứu tinh Israel được loan báo do một giấc mộng (Mt 1, 20). Trong các huyền thoại liên quan tài Môisen, việc mặc khải trong giấc mộng được xảy ra cho Pharaon (Targum Giêrusalem (tên gọi bản dịch Cựu ước sang tiếng Aram sau  thời lưu đày), Sử ký Môisen), cho Myriam (Sử ký Môisen), cho amram (Josèphe) và do một sấm ngôn (Mt 1, 22: Sử ký MS, Josèphe). Cái tin chào đời ấy gây nỗi lo sợ cho Hêrôđê và triều đình một bên, cho Pharaon và thần dân bên khác (Mt 2, 3: Sử ký Môisen, Josèphe). Như Hêrôđê hỏi ý kiến các ký lục, Pharaon cũng bàn bạc với các nhà chiêm tinh (Mt 2, 4: Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Cả hai bạo chúa đều ra một sắc lệnh tàn sát trẻ thơ, nhưng hai đứa bé họ muốn giết lại thoát khỏi cách lạ lùng (Mt 2, 16- 18 ; Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Trong cả hai trường hợp, nhà giải phóng tương lai, sau khi trốn khỏi quê hương, được trời loan báo là có thể về lại quê nhà vì "những kẻ tìm hại tính mạng hài nhi đã chết" (Mt 2,20; Xh 4,19).

Chính trong bối cảnh văn chương ấy, hiển nhiên đầy tính cách giả tạo mặc dầu có ý -nghĩa thần học sâu xa, mà ta phải đặt trình thuật các đạo sĩ kính bái Chúa Hài đồng (Mt 2, 1-12).

TẠI BÊLEM XỨ GIUĐÊ

Các Tin Mừng thời thơ ấu (Mt 1 -2 và Lc 1 -2) không ngừng quả quyết Chúa Kitô thuộc dòng dõi Đavít và đã sinh tại Bêlem. 

a- Dầu gia phả theo Lc 3,23-38 thế nào chằng nữa, thì ý nghĩa của nó về điểm này quá rõ ràng, và Mt 1 , 1 cũng nói minh nhiên: "Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, Con Đavít, con Abraham": Thế nhưng ta cần thêm các chứng từ minh bạch khác. Chẳng hạn Giuse được trình bày như kẻ "thuộc nhà Đavít" (Lc 1, 38), "thuộc nhà và dòng họ Đavít" (2,4). Dacaria tung hô quyền lực cứu độ mà Chúa đã cho dấy lên "trong nhà Đavít" (1, 69). Sau cùng, thiên sứ loan báo cho Maria biết Giavê ban cho trẻ sắp sinh "ngai báu Đavít tổ tiên Người" (1, 32).

Suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu cũng thường được kêu cầu như con Đavít bởi những người mù thành Giêricô (Mt 20, 30 ; Lc 18,35), bởi thiếu phụ xứ Cana (Mt 15,22), bởi đám đông ngày lễ lá (Ml 2 1 ,9. 15 ; Mc 11, 10) và lúc chữa lành người câm bị quỷ ám (Mt 12, 23 ; x. Cv 13, 23 ; Rm 1, 3 ; 2 Tm 2, 8 ; Dt 7, 13tt). 

b- Sự kiện sinh ra tại Bêlem có liên hệ chặt chẽ với việc Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Đavít. Chính tác giả của Lc 2 đã giải thích như thế: Giuse và Maria phải về thành Bêlem là do yêu cầu đăng ký hộ khẩu tại nguyên quán. Lời thiên sứ loan báo việc sinh hạ ấy cho mục đồng cũng nhấn mạnh rõ ràng Cứu Chúa đã chào đời "trong thành Đavít" (Lc 2, 11). Mt thì chỉ xác nhận sự kiện, mà các thượng tế và ký lục trong dân đều biết rằng đã được ngôn sứ mi ca tiên báo (cc. 5- 6).

Và mặc dầu người ta không còn tìm thấy đâu khác trong Tân ước một lời khẳng định liên quan đến việc Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, niềm tin của cộng đoàn sơ khai về điểm đó vẫn không nhiễm chút nghi ngờ. Tin Mừng thứ 4 có lần tóm tắt thành quả rao giảng của Chúa Giêsu dịp lễ Lều Trại nhừ sau :

"Trong dân chúng, có người nghe các điều ấy thì nói : "Hẳn thật Ngài là Đấng Ngôn sứ". Kẻ khác rằng: "Người là Chúa Kitô". Nhưng có kẻ lại bảo: "Dễ chừng Chúa Kitô đến từ Galilê sao? Kinh Thánh lại đã không nói là : Chúa Kitô thuộc dòng giống Đavít và đến từ Bêlem làng quê Đavít đó ư ?" (Ga 7, 40-42).

Giả sứ đã có một vài do dự về điểm này giữa các Kitô hữu, thì không lẽ nào Giavê ghi lại mà chẳng cải chính các luận điệu giải thích đó, những lợi giải thích xem ra chẳng biết rằng Chúa Giêsu thật sự thuộc nhà Đavít và đã sinh hạ tại Bêlem.

SẤM NGÔN CỦA MICA 

Đúng y như  thể văn đặc biệt của các chương đầu Mt, mà ta đã ghi nhận lúc nãy, giai thoại các đạo sĩ kính bái hoàn toàn được xây dựng chung quanh sấm ngôn của Mica (5, 1).

Nhà ngôn sứ, đương thời với Isaia, dã mô tả trong 4, 11- 13 các mưu đồ vô hiệu của chư dân (ở đây là Assiri) nhằm chống lại Sion. Từ câu 14 đến đầu chương 5, Mica hát mừng vinh quang tương lai của triều đại Đavít. Ông đối chiếu dáng nhỏ bé của Ephrata, nơi xuất thân một Đavít mới, với thành lũy Sion kiên cố vĩ đại (Bet Gader: 4,14) : 

Phần ngươi, hỡi (Bêlem) Ephrata,

nhỏ bé nhất trong hàng bộ lạc Giuđa,

chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta

vị có mệnh thống lĩnh Israel;

nguồn gốc của Người lên đến thời xa xưa

lên tại những ngày thuở trước.

Vì vậy Giavê sẽ bỏ rơi chúng

cho đến ngày sinh nở người nữ phải sinh con.

Bấy giờ số sót anh em người sẽ trở về

với con cái Israel.

Người sẽ đứng lên, Người sẽ chăn dắt đoàn chiên Người.

Chúng sẽ được an cư, vì từ đây Người sẽ mở rộng uy quyền

cho đến tận cùng bờ cõi (Mca 5, 1- 3).


Việc đề cập đến "người nữ phải sinh con" và sự tương đồng hiển nhiên với sấm ngôn về Emmanuel (Is 7) đã đặt sấm ngôn này của Mica trong viễn tượng cánh chung luận thiên sai Đứng trước sự đe dọa của Assyri, nhà ngôn sứ an ủi dân chúng hãy hy vọng vào Đấng giải phóng tương lai thuộc nhà Đavít, Đấng mà ông mô tả là sẽ dựa xây một triều đại thanh bình, hùng mạnh và phổ quát.

Thánh Mt gán việc giải thích bản văn Mica theo ý nghĩa thiên sai và địa dư cho các thượng tế và ký lục: được Hêrôđê bàn hỏi, các ông này đã chỉ định thành Bêlem. Thật vậy, bản Targum hiểu đoạn văn này nói về Đấng Messia và Bêlem : Hỡi Bêlem Ephrata, quá nhỏ bé không đáng kể vào số thành có nghìn dân thuộc nhà Giuđa, chính từ ngươi sẽ xuất thân Đấng Messia thống trị trên nhà Israel, Đấng mà tánh danh đã được chỉ định từ nguyên thủy, tù những ngày xa xưa.

Và chính tại Bêlem thuộc Giuđa mà các truyền kỳ giáo sĩ được góp nhặt trong tập Berachoth (II,5) của Talmud Giêrusalem (bộ chú giải các bản văn pháp luật Ngũ thư) và trong tập cha Rabbatì (I,16) - cho rằng Đấng Messia sẽ chào đời.

Thánh Mt đưa vào bản văn Mica (c.6) một vài thay đổi hơi lạ lùng. Ephrata (Bêlem Ephrata) trở thành Giuđa (Bêlem, đất thuộc Giuđa), để phân biệt rõ hơn thành này với một thành khác trùng tên ở Galilê, trong chi tộc Dabulon. Còn hình dung từ nhỏ bị tác giả Tin Mừng minh nhiên phủ nhận. Như thế, câu trích dẫn của Mt có giải thích Mica ở đâu mà hai bản văn không trùng hợp nhau hoàn toàn. Mica đã nói Bêlem "quá nhỏ bé không đáng kể vào số các thành nghìn dân", tuy nhiên Đấng Messia vẫn từ đó xuất hiện. Còn Mt lại bảo "Hẳn ngươi không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc giua: vì tự ngươi sẽ xuất hiện ...". Làm vậy, ông đã giải thích cách chính xác ý nghĩa sấm ngôn của bản văn. Rồi, phần đuôi của câu trích dẫn ("kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta"), mượn ở 2Sm 5, 2, nhấn mạnh tính cách đệ nhị Đavít, một tính cách tương hợp hoàn toàn với Đấng Messia thiên hạ mong chờ.

THỜI VUA HÊRÔĐÊ

Ngày giờ giáng sinh của Chúa Giê-su, mà ta không thể xác định dựa và o Luca (2, 1) vì những điểm mập mờ quanh vụ kiểm tra dân số của Quirinius, có thể ước tính dựa vào những chỉ dẫn của Matthêu. 

Nhờ Josèphe, ta biết khá chắc rằng Hêrôđê mất vào khoảng lễ Vượt qua 750 kể từ ngày lập thành (Roma) (năm thứ 4 trước công nguyên) và năm đó, đại lễ trúng vào ngày 12 tháng 4 của chúng ta bây giờ. Như vậy, việc giáng sinh của Chúa Giêsu phải xảy ra trước thời biểu đó. Nhưng thuộc bao lâu ?

Cái ấy còn tùy khoảng cách giữa lúc Chúa Giêsu sinh ra với lúc các đạo sĩ đến, và giữa lúc họ đến với khi nhà vua băng hà.

Thế mà Hêrôđê ngã bệnh nặng và rời hẳn Giêrusalem để đi Giêricô vào tháng 9 hay tháng 10- 749. Và vì Hêrôđê xem ra còn mạnh khỏe lúc các đạo sĩ đến Giêrusalem, nơi ông dĩ  nhiên đang ở, nên phải bảo rằng họ đến đấy trước tháng 10 năm 749.

Ngoài ra, giữa lúc Chúa Giêsu chào đời và lúc các đạo sĩ đến, ta không thể đặt một khoảng thời gian dài hơn 2 năm (Mt 2,16) hoặc ngắn hơn 40 ngày. Quả vậy, 40 ngày sau khi Hài nhi sinh ra, mẹ Người đã đến trình diện tại Đền thờ để làm lễ tẩy uế (Lc 2, 22 ; Lv 12, 2- 8): chắc hẳn bà đã nghĩ rằng không nên làm việc này - với lại thực tế không có thời giờ - sau khi các đạo sĩ đã ra đi và Giuse đã nhận được lệnh trốn sang Ai-cập. Đàng khác, ta không thể đặt lễ tẩy uế sau lúc trở về từ Ai-cập vì như thế phải tính ít nhất là 6 hoặc 8 tháng giữa lúc Hêrôđê băng hà và lúc Arkhêlàô bắt đầu lên ngôi (Mt 2, 22).

Thành thử Chúa sinh ra trễ lắm là vào tháng 8 năm 749,  có lẽ trước đó một chút. (Như vậy trong kỷ nguyên Kitô giáo, được Denys le Petit đặt ra, có tính trễ 4 hoặc 5 năm, vì ông này đã gọi năm 754 là năm 1 sau Chúa Kitô).

NHỮNG ĐẠO SĨ TỪ PHƯƠNG ĐÔNG ĐẾN

Chỉ dẫn ngắn ngủi này, mà thánh Mt cho rằng đầy đủ đối với độc giả của mình, đã tạo nên nhiều phỗng đoán trong truyền thống Kitô giáo về sau.

Các chứng từ cổ xưa nói rất khác nhau về con số các đạo sĩ. Đôi lúc 2 (bích họa trong ngôi mộ thánh Phêrô và thánh Marcellin tại Roma), 3 thạch mộ còn giữ tại bảo tăng viện Latran), 4 (nghĩa địa thánh nữ Domitille tại Roma) và ngay cả 8 (một bình cổ tại bảo tàng viện Kircheriano). Các truyền thống Syria và Amlênia thì tính tới 12. Tuy nhiên con số 3 ưu thắng hơn cả, có lẽ vì tương ứng với 3 phẩm vật vàng, nhũ hương, mộc dược, hoặc vì người ta lấy đó như là đại diện của 3 chủng tộc Sem, Cam, Giaphet.

Tên của họ, mà nay gọi là Melchior, Gaspar, Balthasar, xuất hiện lần đầu tiên trong một thủ sao vô danh tại ý thế kỷ thứ IX và trong một thủ sao tại Paris thế kỷ VII (dưới hình thức Bithisarea, Melichior và Guthaspa). Nhưng nhiều tác giả, thuộc những vùng khác, lại đưa ra những tên hoàn toàn khác biệt.

Địa vị vua chúa của họ, hoàn toàn thiếu nền tảng lịch sử hình như đã được gán ghép do một lối giải thích Tv 72, 10 quá theo mặt chữ: "Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật Vua chúa Saba và Seba sẽ đem tiều cống lại chầu". Tertullien, mà người ta thường trưng thế giá để bênh vực cho truyền thống này, không bảo họ là vua, nhưng "như vua chúa" (fere reges; Adv. Marcion 3,13 (PL 2,367). Xem Adv. Jud. 9 (PL 2,659). Chẳng bao giờ họ xuất hiện với những biểu hiệu vương quyền trong nghệ thuật Kitô giáo cổ thời cả, nhưng chỉ với một chiếc mũ kiểu Phrygie và ăn vận như các nhà quý tộc Ba tư.

Sự khác biệt chứng từ cũng gặp lại trong vấn đề xuất xứ của họ. Nhiều người cho rằng họ từ Ba tư đến, kẻ khác lại bảo từ Babylon, Ả-rập hoặc ngay cả Ai-cập và Ethiopie. Tuy nhiên, có lẽ về vấn đề này ta có bằng chứng xác thực hơn. Thật vậy, một chỉ dẫn lịch sử quý giá về thời Constantin đã xác nhận tính cách cổ xưa của truyền thống cho rằng các đạo sĩ xuất phát từ Ba tư. Đó là một bức thư chung của công đồng Giêrusalem năm 836 ; bức thư thuật lại rằng năm 614, lúc binh sĩ Ba tư của Cosroas II tàn phá tất cả các nơi thờ tự tại Palestine, họ đã tôn trọng giữ nguyên thánh đường Bêlem do Constantin xây, vì thầy bức tranh khảm đá ở mặt tiền trình bày các đạo sĩ ăn vận trông như người đồng hương của họ (x. H.Vincent và F.M.Abel, Bethléem, le sanetuaire de la Nativité, Paria, Gabalda, 1914, tr. 128).

Nếu phải thừa nhận rằng các đạo sĩ trong Tin Mừng là người Ba tư, thì ta có thể đưa thêm một điều nữa, liên quan đến địa vị của họ. Các đạo sĩ Ba tư, từ khởi thủy, chẳng liên hệ gì với các tay ảo thuật gia Ai cập, các chiêm tinh gia Canđê, hay cách chung với những kẻ làm nghề phù thủy cả. Trong sách Catha và Avesta - kinh thánh của Nhị nguyên giáo Ba tư (Mazdéisme) - magavan và mogu có nghĩa là "người dự phần vào ân huệ " (= học thuyết nhị nguyên giáo) và tương đương với nhung kẻ theo giáo lý của Zarathustra". Theo Herodote (Histoire I, 101), họ là một trong những chi tộc trước kia ở vùng Médie mà, cùng với thời gian, làm thành một giai cấp tư tế chuyên việc phụng thờ Ahura Mazda; trong giai cấp này, học thuyết nhị nguyên đã được giữ gìn khá tinh tuyền. Tất cả các đạo sĩ chẳng phải là tư tế, nhưng mọi tư tế đều phải thuộc về chi tộc này. Đó là một giai cấp hiền nhân, có ảnh hường lớn trên các hoàng đế Assyri, Canđê và Mêđi. Trong số các sĩ quan đi theo Nabuchodonosor khi ông chiếm thành Giêrusalem, Gr 39, 3.13 có kể tên một Sereser nào đó vốn là Rab-Mag, nghĩa là Thủ lãnh các Đạo sĩ.

Tôn giáo của Zarathustra cho thấy có nhiều điểm tương đồng lý thú với tôn giáo Môisen và cụ thể hơn với niềm hy vọng thiên sai của Cựa ước. Zarathustra đã dạy rằng có hai nguyên lý vĩnh cửu (Ahura Mazda, nguyên lý thiện, và Anra Mainyu, nguyên lý ác); giữa hai bên có một cuộc chiến trường kỳ nhằm tranh ngôi bá chủ thế giới, một cuộc chiến sẽ chấm dứt với chiến thắng vĩnh viễn của thiện trên ác. Chiến thắng ấy được thành tựu đặc biệt nhờ một Đồng minh - saushyant - Đấng sẽ là "chân lý nhập thể" và sẽ sinh ra bởi một trinh nữ "mà chẳng người đàn ông nào đã đụng đến".

Ý niệm Đồng minh ấy dĩ nhiên có sau thời Zarathustra, vốn sống vào thế kỷ VI trước Chúa ki tô. Thành ra nó có thể là hậu quả phát sinh do ảnh hưởng của nhung niềm hy vọng và tư tưởng tôn giáo nơi dân tộc Do thái khi họ bị lưu đày tại Babylon. Nhưng, ngay trong giả thuyết ít chắc chắn hơn cho rằng ý niệm ấy - tàn dư của mặc khải nguyên thủy - có trước những cuộc liên lạc với người Do thái, thì nỗi mong chờ vị Đồng minh đó cũng đã có thể đồng hóa với niềm hy vọng thiên sai. Do đấy, người ta đã có thể cho rằng Đấng Messia- Đồng  minh sẽ là một ông vua Do thái.

VUA DÂN DO THÁI

"Vua dân Do thái mới smh hiện ở đâu ? (c.2). Câu hỏi ấy, được các đạo sĩ phương Đông lặp đi lặp lại trên các ngã đường chật hẹp của Giêrusalem, hẳn vang dội bên tai người Do thái như một lời châm biếm chua cay tàn bạo. Và người ta hiểu rằng nó gây bối rối cho ông vua Hêrôđê đa nghi.

Tuy nhiên, sự kiện họ loan báo đã nằm giữa lòng hy vọng của dân tộc Hy bá, một niềm hy vọng vốn đã được gieo rắc rộng rãi bên ngoài biên giới địa dư xứ Palestine. Thánh Kinh, được dịch sang hy ngữ 2 thế kỷ trước Chúa Kitô, đã phổ biến trong thân thế giới niềm hy vọng về một vì vua sẽ đến từ Giuđê. Các sử gia Rôma viết về cuộc chiến tranh Do thái năm 70 đã chó biết niềm tin mù quáng của người Giuđê vào các sấm ngôn đó là nguyên nhân chủ yếu khiến họ cuồng nhiệt đấu tranh. Chính các sử gia này cũng tin, nhưng cho rằng sấm ngôn ấy đã được Vespasien và Titus hoàn thành. Tacite viết :

"Lắm người tin tưởng vào điều đã được phán trong sách xưa của các tư tế, cho rằng vào thời này Đông Phương sẽ nắm chủ quyền, và nhiều kẻ đến từ Giuđê sẽ thống trị thế giới. Các sấm ngôn ấy chỉ về Vespasien và Titus. Thế nhưng đám bình dân, theo dục vọng thông thường của con người ưa giải thích hạnh phúc đoan hứa ấy trong chiều hướng thuận lợi cho mình, lại đã không chịu tin vào thực tế, ngay cả với bằng chứng của nghịch cảnh " (Hist. 5, 13).

Còn Suétone thì bảo :

"Trong toàn cõi Đông Phương có lan truyền một niềm tin xa xưa cho rằng nhiều kẻ xuất thân từ Giuđê sẽ thống trị thế giới Người Do thái, vì giải thích sấm ngôn theo chiều hướng thuận lợi cho họ, đã nổi loạn đứng lên. Thật ra sấm ngôn này quy clúếu hoàng đế Rôma" (Vespasien). (Vespas... 4. Sử gia và tư tế do thái Flavius Josèphe cũng nói tương tự: F.J. 6,54).

Câu hỏi của các đạo sĩ nằm đúng trong chiều hướng của niềm tin phổ biến khắp Đông Phương này vậy.

NGÔI SAO

Đây là yếu tố siêu phàm của trình thuật. Các đạo sĩ lên đường bởi vì "đã thấy ngôi sao của Người mọc lên" (c.2).

Phải tuyệt đối gạt bỏ mọi lối đồng hóa ngôi sao này với một hiện tượng tự nhiên nào đó. Việc giao hội giữa Mộc tinh với Thổ tinh, như Képler đã nghĩ, hoặc sự xuất hiện của một sao chổi đều không phù hợp với tính thuật Mt chút nào. Đấy là một ngôi sao họ đã thấy bên Đông Phương, nhưng rồi không hiện ra nữa cho tới Giêrusalem. Một ngôi sao mà, từ Giêrusalem đến Bêlem, di chuyển dần theo hành trình của họ, và dừng lại trên ngôi nhà có Hài nhi (c.9). Nếu chấp nhận lịch sử tính chính xác của Mt cho đến trong chi tiết, thì nhất định phải thừa nhận tính cách ngoại nhiên của vì sao này.

Ngược lại, nếu cùng với vài người công nhận, mà không động tới một phán quyết dứt khoát của Giáo Hội, rằng ta đang đứng trước một yếu tố giải thích (élément midrashique) đã được đưa vào với một chủ ý giáo huấn, thì nguyên việc hiểu biết chủ ý ay của tác giả đủ dẫn đến một lối giải thích thần học chính xác về bản văn. Trong mọi trường hợp, việc nghiên cứu yếu tố này của trình thuật được kể là quan trọng nhất.

Phải nói ngay rằng ngôi sao của các đạo sĩ chẳng ăn nhập gì với hình ảnh văn chương về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân. Thành ra đó không phải là thứ hiện tượng đã xảy đến lúc Môisen sinh hạ (x. Sota 12 ; Rabbah Ex. v.v...). Ta lại càng không nên đối chiếu sự kiện này với hiện tượng ánh sáng mặt trời tăng lên 48 lần ngày Isaac sinh ra (x. Pesiqtha Rabbathi 42. Lời được gán cho giáo sĩ Chanina ben Lêvi: "Ngày Isaac sinh ra, Thiên Chúa đã tăng ánh sáng mặt trời lên 48 lần so với ánh sáng thông thường"), hay với hiện tượng ánh sáng thường đi theo các cuộc thần hiển hay thiên sứ xuất hiện. Sau cùng, ở đây không nên nghĩ đến những điềm thiên văn đã đưa tới những quyết nghị tiêu trừ con trẻ tại Rôma, như Suétone đã làm chứng (x.chương 94 trong Vita Augustini và chương 36 trong Vita Neronis).

Ngược lại, đem đồng hóa ngôi sao của các đạo sĩ với  ánh sáng thiên sai Isaia loan báo, như một vài người đã làm, thì tự nhiên hơn : Nhà ngôn sứ đã loan báo thế này :


Dân đi trong tăm tối

đã thấy một ánh sáng lớn;

trên những kẻ ở xứ âm u 

một ánh sáng đã rạng ngời ...

Vì một trẻ đã sinh ra cho tà,

một con trai được ban xuống cho ta,

vai Người đỡ lấy quyền bính. (Is 9, 1. 5 ; x.60, 1- 6).


Hiển nhiên bản văn này nói đến ánh sáng theo nghĩa ẩn đụ Đề tài ánh sáng thiên sai, nằm đầy trong văn chương Cựu ước chính lục cũng như ngoại thư, đã đóng một vai trò quan trọng trong hai trình thuật Tin Mừng về thời thơ ấu của Chúa Kitô. Nhưng trong ấy ánh sáng đó bao giờ cũng đồng hóa với Đấng Messia. . “ Nói cách khách ngôi sao Giacóp mà Balaam đã từng tiên báo hình như luôn luôn được nhân cách hóa (Ds 24,17). Nó không bao giờ là một hiện tượng không khí, như trong trường hợp của các đạo sĩ. Giáo sĩ Aqiba áp dụng bản văn Ds 24,17 này vào Bar Koseba (một thủ lãnh kháng chiến Do thái trong cuộc nổi loạn năm 132-135. Tên của ông có nghĩa là "con của ngôi sao". Chú thích của người dịch). Di chúc 12 tổ phụ, trong hai dịp, đã xem ngôi sao mà người ta nói đến trong sách Dân số - đúng là một ngôi sao, mặc dầu được so sánh với mặt trời - như là chính con người Đấng Messia (x. Test. Lêvi 18, 3 : PG 2,1067 và Test.Juda 24, 1 : PG 2, 1083). Đối với các tu sĩ Qumrân, thì chính vị Tôn sư công lý (mai tre de la Justice) là người hoàn thành sấm ngôn Balaam .(x. Tài liệu Damas, cột VII dòng 18- 21).

Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng có một tương quan giữa giai thoại ngôi sao và sấm ngôn Balaam.

Các sấm ngôn thời danh (Ds 22, 1- 24, 25) của ông thầy bói Đông phương này, được vua Moab triệu tới để chúc dữ cho Israel (Ds 23,7), chỉ có thể hiểu được nếu ta biết quan tâm đến văn thể riêng của các thầy bói, một văn thể mô tả các biến cố tương lai với những từ ngữ chiêm tinh học rút từ nhận xét, quan sát về Hoàng đạo (Zodiaque: vòng tròn có 12 công nằm 12 chòm sao mà mặt trời như phải xoay quanh trong vòng 12 tháng). Những sấm ngôn Balaam chắc chắn có liên hệ với những lời chúc phúc của Giacóp (St 49), vốn cũng thuộc về văn chương chiêm tinh của các thầy bói.

Lời Giacóp chúc lành cho Ruben mở đầu bầng câu :  "Con là con đầu lòng của ta và tinh hoa khí lực của ta, có thừa kiên dũng, có thừa uy năng; sôi sục như nước ..." (St 49, 3- 4) ; câu này làm ta liên tưởng đến chòm sao Aquarius (chòm sao Bảo mình trong Hoàng đạo) mà tên trong tiếng Babylon gu-la có nghĩa là khổng lồ và thường được trình bày như người vác một thùng nước có hai vòi chảy ra.

Lời chúc lành cho Giuse với những ám chỉ về bò mộng, cung tên, quyền mục tử Israel làm ta liên tưởng tới các chòm sao Kim ngưu, sao Rua, sao Liệp hộ.

Nhưng nhất là lời chúc lành cho Giuđa mà phần đầu buộc ta nghĩ' đến chòm sao Sư tử :

Giuđa là một sư tử con;

Phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con;

nó thu mình, nó phục xuống'như sư tử đực,

tựa sư tử cái: nào ai bắt nó dậy được?

Phủ việt sẽ không rời khỏi Giuđa

và quyền trượng khỏi giữa chân nó

cho đến khi nào lâm trào đấng nắm vương trượng,

Đấng muôn dân bái phục vâng lời (St 49, 9- 10).


"Những lời trên rõ ràng hứa đế vị cho dòng dõi Giuđa, không nghi ngờ được, Enciso viết. Nhưng dòng dõi ấy được mô tả dưới hình dạng chòm sao Sư tử. Vũ trụ học Assyri đã biết tới chòm sao này dưới tên Ur-gu-la có nghĩa là sư  tử cái ; và phía bắc của chòm sao có một sao khác người ta thường gọi là Leo minor, trong tiếng Assyri là Urmah hay sư tử đực. Thế của con vật trong chòm sao đã phát sinh thành ngữ : nằm như sư tử đực và sư tử cái (St 49,9). Và có lẽ chính cái vị trí cao hơn của sao Leo minor đã là nguồn gốc của công thức: "Hỡi Giuđa, con của sư tử phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con". Trong ngực của sư tử có ngôi sao Regulus, mà người thời xưa đã từng gọi là vua. Có lẽ ngôi sao này được ám chỉ qua hình ảnh vương trượng mà Giuđa lúc ngồi kẹp giữa hai chân" (x. Encisoviana, La estrella de Jesus, trong Por leo senderos de la Biblia. Madrid-buenos Aires (Editions Studium), 1957, t.II, tr. 157).

Trong sấm ngôn Balaam có quy tụ 3 lời Giacóp tiên đoán về Ruben, Giuse và Giuđa với những biểu hiệu tinh tú của họ: vua, vương trượng, bò mộng, . sư tử, thùng nước, mũi tên :


Giavê Thiên Chúa của nó hằng ở với nó

và nơi nó vọng lên tiếng hoan hô Vua cả.

Thiên Chúa đem nó ra khỏi Ai Cập.

Đối với nó, Ngài tựa như thể sừng trâu.

Này một dân chỗm dậy như sư tử cái

vươn mình lên như sư tử đực:

nó sẽ không nằm trước lúc say mồi:

và uống cho đã huyết người nó giết (Ds 23, 21-22. 24)

Nó thu mình, nó nằm xuống

như sư tử đực, tựa sư  tử cái:

ai nào bất nó dậy được (Ds 24, 9).

Tôi thấy một điều - nhưng không phải cho lúc này,

Tôi ngắm một sự - nhưng không phải gần bên:

Một ngôi sao, tự Giacóp, trở thành thủ lĩnh,

một vương trượng nổi lên, tự Israel.

Người đập vào màng tang Moab... (Ds 24,17)

(sư tử, vương trượng, ngôi sao sẽ gặp lại trong các hình ảnh biểu tượng của Khải huyền 5, 5 ; 2, 26- 28).


Từ những điều vừa nói, ta thấy các lời chúc lành của Giacóp và tiên tri của Balaam đều thuộc một loại thể văn : thể văn các điềm triệu tương quan với Hoàng đạo. Nhưng trong tư tưởng chiêm tinh đông phương, vương quyền và sao đi song song với nhau trong chòm sao sư tử, hay đúng hơn trong ngôi sao chiếu giá lòng chòm sao ấy, ngôi sao người ta biết đến dưới cái tên Regulus. Điều này giải thích tại sao các đạo sĩ – là những người có lẽ biết rõ những lời tiên đoán của Giacóp và Balaam - lại tự nhiên nói về ngôi sao của vua dân Do thái, như thể một điều ai ai cũng rõ.

Giai thoại của các đạo sĩ như vậy cống hiến cho ta một bằng chứng nữa về sự quan phòng ân cần của Thiên Chúa, Đấng thích ứng với bẩm tính khuynh hướng riêng của những kẻ Ngài muốn cứu độ. Đối với mục đồng là hạng người đơn sơ, sẵn sàng chấp nhận dễ dàng cái siêu nhiên, Ngài phái vài thiên sứ đến loan báo cho họ biết Chúa Giêsu đã chào đời. Ngài kêu mời các giáo sĩ tại Giêrusalem, vốn chăm chăm chú chú vào mặt chữ của lề luật, hãy nghiêng mình khảo cứu những sấm ngôn tiên báo ngày Ngài xuất hiện, và điều đó nhân câu hỏi các đạo sĩ đặt ra. Ngài thức tỉnh lương tâm của Hêrôđê, con người dửng dưng trước vấn đề tôn giáo nhưng lại mẫn cảm trước nguy cơ mất vương quyền, bằng cách cho ông biết cái tin ông lo sợ, tin tức về một vì vua Do thái sinh bên ngoài lâu đài của ông. Sau cùng, đối với các đạo sĩ đang trông chờ sự xuất hiện của đấng Messia-Đồng minh, Đấng mà cuộc đời, theo họ, gắn liền với vận hành của một vì sao, Ngài cho xảy ra hiện tượng lạ lùng ấy, hiện tượng mà các người có óc khoa học sẽ vô vọng tìm cách khám phá bản chất. Thật vậy, hiện tượng đó đâu phải là đối tượng của những định luật thiên văn khô khan, cứng nhắc, song là đối tượng của định luật thần thiêng, khôn tả của tình yêu ân cần của Thiên Chúa.

VÀNG, NHŨ HƯƠNG VÀ MỘC DƯỢC

Giai thoại các đạo sĩ kết thúc với việc họ kính bái Hài nhi : Họ thấy Hài nhi cùng Maria mẹ Người (c . 11).

Kể ra lạ lùng khi sách thánh (St 3,15; Is 7; Mca 5) cũng như các truyền kỳ giáo sĩ liên quan tới việc sinh hạ Đấng Messia chỉ chú trọng đến mẹ Người mà bỏ quên ông cha. M.J. Lagrange nhấn mạnh: "Tuy nhiên nếu do đó mà kết luận có sinh hạ đồng trinh thì thật là gượng ép. Do thái giáo rất lúng lúng khi gọi tên cha Đấng Messia; dễ dàng hơn khi nói úp úp mở mở đến mẹ của Người mà gia phả xem ra không mấy quan trọng bằng."

“Và họ phục mình xuống yết bái Người; đoạn mở tráp báu, họ dâng Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược"  (c. 11)

Câu này làm ta nhớ lại cuộc viếng thăm linh đình trọng thể của nữ hoàng Saba đối với vua Salomon và những lễ phẩm xa hoa của bà :

"Bà mang đến Giêrusalem vô số của cải, lạc đà tải hương trầm, vàng khối cùng ngọc quý ... Bà đã dâng cho vua một trăm hai mươi tạ vàng, một số lượng hương trầm lớn và nhiều ngọc quý ... ; người ta chưa hề thấy có hương trầm nhiều như hương trầm nữ hoàng Saba đã dâng cho vua Salomon" (1V 10, 2. 10 ; x.2 Sk 9, 1 .9).

Vẻ xa hoa tráng lệ quá khứ ấy là một điềm triệu cho thời thiên sai. Còn hơn Giêrusalem của Salomon, Giêrusalem thiên sai sẽ thấy tuôn về mình vô số của cải chư dân, dăc biệt của cải miền Saba:

Dân Saba hết thảy kéo lại,

họ tải đến vàng với trầm hương

và cao rao những lời ngợi khen Giavê (Is 60,6).


Quy tụ về Giêrusalem, những của cải ấy sẽ được mang đến dâng cho vua thiên sai, Salomon mới, Đấng trổi vượt vinh quang hơn tổ tiên mình.


Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật

Vua chúa Saba và Sêba sẽ đem triều cống lại chầu;

Vâng, hết thảy vua chúa sẽ bái lạy Người,

tất cả muôn dân sẽ làm tôi Người ...

Người sẽ thọ, và thiên hạ hiến cho Người vàng Seba

(Tv 72, 10- 11. 15).


Chắc chắn là với thần học ám chỉ Cựu ước của ông, Mt coi việc tiến dâng của các đạo sĩ như là dấu hoàn thành các sấm ngôn thiên sai. Về phương diện ấy, chi tiết các của lễ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng. Sách các Vua nói đến hương liệu, vàng, ngọc quý; Isaia vàng và nhũ hương; còn Mt vàng, nhũ hướng và mộc dược.

Mộc dược này làm ta nghĩ đến mộc dược Nicôđêmô sẽ dùng để xức xác Chúa Giêsu (Ga 19, 39). Bởi đấy trong truyền thống đã phát xuất cách giải thích biểu tượng, như ta thấy nơi thánh Irênê (Adv. haer. 3, 9, 2 : PG 7, 870) và trong câu thơ tóm tắt thời danh của Juvencus: thuở, aurum, mynham, regique, hominique, deo que dong tèrunt.

Là kế tử của các người ngoại đầu tiên được mời đến chiêm bái Đấng Messia mới sinh, chúng ta không nên thừa nhận cách lạnh lùng tước hiệu Messia của Người. Việc tôn thờ của ta còn phải kèm theo của lễ quảng đại là tất cả con người chúng ta.

(Bài của Salvator Munoz Iglesias,  Assemblées du Seigneur 12)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Thế giới còn chìm trong tối tăm. Nhiều người đã lên đường đi tìm một Cứu Chúa, hoặc một Giêsu nào đó mà họ có lần nghe nói. Giáo Hội chúng ta, xưa nay hãnh diện về sứ mệnh phổ quát của mình, có thể mặc khải Chúa Kitô cho họ không ?

2. Các đạo sĩ đã gặp một hài nhi trần trụi nghèo nàn: Tại Giêrusalem, Thành vinh quang, hình như chẳng có gì. Chúa Kitô chỉ tỏ mình dưới những dấu hiệu khiêm tốn. Không có gì ở Giêrusalem bởi vì tại đó thiếu vắng đức tin. Còn trong Giáo Hội chúng ta thì sao? Đức tin chúng ta có đủ để tỏ bày Cứu Chúa cho trần gian không ?

3. Để chống lại việc Thiên Chúa tỏ uy quyền dưới hình dáng một trẻ thơ, có một ông vua ích kỷ và tàn bạo, đó là Hêrôđê. Vì không am hiểu Kinh Thánh, ông tưởng rằng chỉ cần dùng biện pháp điều tra, âm mưu, bạo lực là đủ để bẻ gãy được dự định của Chúa Quan phòng đang đe dọa ông; nhưng ông sẽ bị các đạo sĩ chơi xỏ, bị Thiên Chúa vạch trần âm mưu và rồi bị loại khỏi lịch sử. Ông không thể nào ngăn cản Chúa Giêsu chiến thắng và hiển trị. Thời đại này vẫn có những hạng Hêrôđê tương tự, nhưng bàn tay Thiên Chúa bao giờ cũng mạnh hơn. Đó là niềm xác tín và hy vọng của Kitô hữu.

4. Chư dân đáp lại tiếng kêu mời của Thiên Chúa, Đấng dùng ngôi sao triệu tập họ, dùng các bản văn ngôn sứ soi sáng họ và giữ gìn họ khỏi vô tình phản bội Ngài. Sứ mệnh của họ không phải là lui lại Do thái giáo lỗi thời, nhưng là trở về ngã khác bằng con đường Giao ước mới.

5. Ngày xưa các đạo sĩ đến với Chúa Kitô từ những vùng xa xôi sâu thẳm. Ngày nay mọi dân tộc đều có Chúa Kitô ở giữa mình, nhờ Giáo Hội và Thánh Thể, cho dù chung quanh họ còn nhiều miền đất lương dân. Cuộc du hành Chúa đòi họ không phải là đi ra khỏi biên giới để đến Thánh địa, nhưng là quảng đại đón nhận mọi chân lý đức tin.

6. Vàng dâng cho Vua, trầm hương cho Tư tế, mộc dược cho Thân xác hy sinh. Vàng của đức tin, trầm hương của đức cậy mộc dược của đức mến. Vàng của việc lành, trầm hương của lời cầu nguyện, mộc dược của hy sinh.

 

Học viện Piô Giáo hoàng  - Chú Giải 2 (theo mùa vọng năm B)

TRANH CHẤP VƯƠNG QUYỀN


(xin xem thêm Chú Giải Phúc âm Chúa Nhật năm A và C)

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Đâu là văn mạch của trình thuật?

2. Cơ cấu bản văn làm nổi bật ba dấu chỉ của một hành vi đức tin và ba thái độ của con người trước mặc khải Thiên Chúa. Hãy nêu lên ba dấu chỉ và ba thái độ đó.

3. Văn thể của trình thuật mang những yếu tố lấy từ nhiều môi trường khác nhau. Đó là những yếu tố nào? môi trường nào?

4. Hãy nêu lên các ý tưởng chính của bản văn. Xin nhớ là những ý tưởng này đều quy về Đấng Messia.

5. Đâu là nhtĩng chi tiết lịch sử vững chắc của trình thuật?

6. Sứ điệp của trình thuật trước tiên muốn gởi tới ai và chủ yếu là như thế nào?

Ngược với vẻ đơn sơ và trần trụi của cảnh Hài nhi nằm trong máng cỏ, trình thuật hôm nay được trình bày như một "tin giật gân". Khung cảnh trở nên khung cảnh của các ông tai to mặt lớn, cận thần triều đình vua Hêrôđê cũng như các thượng tế và ký lục tại thủ đô Giêrusalem. Và ở giữa họ là hoạt động của những nhân vật huyền bí đầy ma thuật nhờ khoa chiêm tinh.

Tuy nhiên, không thiếu vấn đề được đặt. Làm sao những nhà bác học này, vốn là người ngoại quốc và không am hiểu Thánh kinh, lại biết vua dân Do thái mới ra chào đời? Rồi tại sao ngôi sao dẫn họ đến Hêrôđê mà chẳng trực tiếp dẫn đến Chúa Giêsu? Sự hồi hộp còn tăng thêm do việc vị đại vương vốn nắm trong tay sức mạnh, lại cặn kẽ hỏi han tin tức để tìm giết ông vua bé nhỏ, ẩn thân và nghèo hèn! Sau cùng, kể cũng lạ là các Đạo sĩ đến tìm hiểu cơ  sự rồi ra đi mà không để lại dấu vết về hành vi của họ cả. Đấy là tóm tắt những vấn nạn chính mà giai thoại Tin Mừng hôm nay đặt ra.

Để giải quyết các vấn nạn này, nên bắt cho được ý hướng của Mt và nhớ rằng cũng như Lc, ông đã dùng trình thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu làm lời tựa cho toàn bộ tác phẩm của ông. Đối tượng của Tin mừng ông là việc mặc khải Nước Trời, cái công việc vốn đạt tới cao điểm trong cuộc Tử nạn và phục sinh. Để dẫn nhập vào việc đó, ông đã biên soạn trình thuật thời Thơ ấu Chúa Ciêsu, nên trong trình thuật này ta đoán là có thể tìm được dấu vết của cùng chủ đề căn bản.

Lại. nữa, ông đã biên soạn Tin mừng khoảng 80 năm sau khi xảy ra các biến cố, dựa trên các kỷ niệm xưa do truyền thống cung cấp cho và đã trình bày các kỷ niệm này với những  nét kỳ diệu y như mọi tác giả hạnh thánh vẫn làm, khi họ thuật lại cuộc đời nhâu vật của họ.

Rồi trong số độc giả của ông, có nhiều người tân tòng mới gia nhập Giáo hội và tôn thờ Chúa Giêsu, sau khi đã tìm ý nghĩa cuộc đời của họ trong các phương thế nhân loại tia tầm tay, như khoa chiêm tinh chẳng hạn.
Sau cùng, nếu thêm lòng ham thích các lối lập luận bóng bảy và dựa trên Kinh thánh của cứ tọa Kitô hữu gốc Do thái của Mt, ta sẽ đủ những dữ kiện cần thiết để đi vào trong quan điểm của thánh sử.

I. VĂN MẠCH, CƠ CẤU VÀ VĂN THỂ CỦA TRÌNH THUẬT

(Xin lưu ý: các tiểu đề trong bài này là của dịch giả)

a. Xét theo văn mạch, thì trình thuật các Đạo sĩ xem ra trực tiếp gắn liền với phần kết thúc giai thoại đi trước: “Maria Sinh con và Giuse đã đặt tên cho là Giêsu(1,25). Việc hạ sinh được đề cập cách đơn giản, không kèm theo chi tiết gì khác. Và giai thoại các Đạo sĩ, một cách nào đó, đến bổ khuyết cho sự thiếu sót này. Trong cả hai trường hợp, đều có vấn đề giấc mộng.

Phân cảnh các Đạo sĩ  được xem đúng vào loạt phân cảnh đi trước nó. Trong ch.1, Mt đã giới thiệu con người Chúa Giêsu Thần Nhân trong một bức song bình gồm bản gia phả Chúa Giêsu và cuộc truyền tin cho Giuse. Do đó ông đã khơi lên giải đáp cho câu hỏi: chúa Giêsu là ai?". Người là con Đavít, hoàn tất lời hứa cho Abraham, thụ thai do Thánh Thần, sinh bởi Maria. Trong ch.2, ông tập trung một loạt bốn bức tranh được xây dựng theo cùng một mẫu. Mỗi bức đều có tâm điểm là lời Thánh Kinh và muốn giải đáp câu hỏi: "Chúa Giêsu đến làm chi và làm như thế nào Người sinh ra ở Bêlem để quy tụ dân Người, những việc quy tụ này là để sống lại các giai đoạn vừa kỳ diệu vừa đau đớn của Xuất hành; Lưu  đày và của "Nhóm nhỏ còn sót". Bầu khí là bầu khí mặc khải, nhưng cũng là bầu khí bách hại. Thành thử khi giới thiệu Chúa Giêsu vua dân Do thái" đối diện với "vua Hêrôđê" (c.1) trong bối cảnh này, rõ ràng Mt có mối bận tâm chính là cho thấy bản chất đích thực của sứ mệnh vương giả của Chúa Giêsu là Thánh Kinh từng loan báo.

Ta có thể nhận xét rằng trong cuộc truyền tin cho Giuse, Chúa Giêsu được gọi là "Emmanuel", Thiên Chúa ở cùng-chúng-ta, trong lúc trong trình thuật các Đạo sĩ, Người được bày tỏ như là Thiên Chúa của dân ngoại. Lối trình bày lưỡng diện này sẽ gặp lại trong phần kết thúc Tin mừng Mt. "Này Ta ở với các ngươi" . . . "Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân nước . . ." (28,19-20). Nó cũng có nơi lúc, trong giai thoại Trình dâng tại Đền thờ: sau khi cho thấy Chúa Giêsu được thân nhân và kẻ nghèo trong bản thân các mục chồng tiếp đón, Lc đã làm nổi bật sứ mệnh của Chúa Giêsu giữa dân  ngoại qua lời tiên tri của Simêon.

Thành thử dưới khía cạnh vừa nói, giai thoại các Đạo sĩ trong Tin mừng thứ nhất có cùng vai trò như giai thoại trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ trong Luca: cả hai đều nhấn mạnh đến tính cách lưỡng diện của sứ mệnh Cứu Chúa: ngươi vừa là Đấng Mặc khải vừa là cớ vấp Phạm. Tuy nhiên, nơi Mt vai trò này hiện rõ qua việc làm nốt bật sự chống đối của Hêrôdê và của nhà chức trách Giêrusalem. Tựu trung lại thì nó cũng chỉ làln sáng tỏ chủ đề "Chúa Giêsu Vua muôn dân'' là chủ đề nằm trong trục chính của Tin mừng thứ nhất : Nước Trời.

b. Cơ cấu bản văn có thể phác họa ra dễ dàng dọc theo một lộ trình mà ý nghĩa vừa có tính cách vật chất vừa có tính cách thiêng liêng. Quả thế, cơ cấu đó nằm giữa hai cặp khung mà cặp đầu cùng đề cập đến một con đường (cc. 1 và l2); việc con đường thứ hai không còn giống với con đường thứ nhất minh chứng trong trong quãng thời gian ấy. Nhiều biến cố quan trọng đã giúp cho các đạo sĩ xử sự theo một cách mới: ánh sáng của Chúa Giêsu đã thay thế ánh sáng của ngôi sao. Cặp khung thứ hai minh nhiên đề cập đến lột thái độ đức tin: các Đạo sĩ đến "yết bái" (cc.2 và 11), như lược đồ dưới đây cho thấy rõ. Giữa đó, có hai lần tạm dừng nơi vua Hêrôđê và "Vua dân Do thái". Hêrôđê là cơ hội cho một cuộc tạm dừng để hỏi han, còn Vua dân Do thái là cơ hội cho tuột cuộc tạm dừng để thờ lạy. Như thế là có sự tương phản giữa hai ông vua.

Cơ cấu này cho ta thêm một vài suy nghĩ: ngôi sao một cách đặc biệt, có mặt trong suốt hành trình, và dọc đường. Nó làm nổi bật da dấu chỉ mà mọi cuộc dấn bước của đức tin không thể thiếu: một biến cố tự nhiên. Lời Kinh thánh, chính Chúa Giêsu.

Có bốn hạng người xuất hiện: hài nhi, tâm điểm và  nguồn gốc của tất cả sự di động; các Đạo sĩ với cuộc hành trình xa xôi và nguy hiểm nhưng đầy lợi ích. Hêrôđê (và "cả thành Giêrusalem làm một với ông") cũng động đậy nhưng chẳng đạt đến điều mong muốn vì có dã tâm; sau cùng là các thủ lãnh Giêrusalem không thể nhúc nhích vì bị trói chặt trong mớ kiến thức không chuyển thành hành động của họ.

Cách trình bày này vừa tiên báo tất cả thảm kịch của đời Chúa Giêsu theo Tin mừng thứ nhất, vừa cung cấp toàn bộ yếu tố của hành trình đức tin cho con người mọi thời.

c. Cơ cấu quá sức kiểu này nằm trong một bài sáng tác mà văn thể có liên hệ với nhiều môi trường văn hóa khác nhau, khiến cho nó thành một toàn bộ phức tạp.

Trước nhất văn thể mang nhiều yếu tố Kinh thánh liên quan đến Đấng Messia dòng dõi Đavít.

Bêlem là thành của Đavít. Đấng Messia phải từ đấy phát xuất ra (St 49,10). Câu trích dẫn (c.6) mượn của Mica (5, 1) nói lên điều này; nhưng cần lưu ý xem nó đã được truyền lại ra sao.

Vua là kẻ được người ta dâng các lễ vật quý giá nhất như vàng ( IV 10,2; Is 39,2), hương. Đấng Messia cũng đã được xem như đặc biệt có quyền nhận các thứ châu báu đó (Tv 72, 10) vì Người sẽ là Đấng khiến dân ngoại lên đường tiến đến Giêrusalem. Việc đăng trình này nhắc nhở cuộc di chuyển của muôn dân xảy ra trong thời thiên sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo (Is 2,2-3 ; 60, 1-6 ; Tv 72, 1 1 . . . ).

Bản văn cũng được biên soạn với những yếu tố phát xuất từ Do thái giáo đương thời mà não trạng được đúc nên do cả một nền văn chương. Đặc biệt có một cuốn sách chú giải (midrash) về Môisen mà sau đây là vài câu trích:
"Pharaon . . . triệu. tập tất cả các hiền triết và luật sĩ . . . toàn dân vô cùng khiếp vía . . .

Đến trước mặt vua một ông hoàng tâu rằng . . . một hài nhi sắp sinh ra cho con cái Israel . . . Vua ra lệnh giết hết mọi con trai; may ra điều đó mới không được thực hiện" (Khai triển đoạn Xh 1,9.22).

Ta thấy có nhiều tương hợp với Mt; Hêrôđê cũng triệu tập các Đạo sĩ (c 7); ông và cả thành cùng hoảng hốt (c.3); ông tham khảo ý kiến của các thủ lãnh trong dân (c.4) và quyết định tru diệt các con trẻ (2,16).

Khi trình bày cuộc sinh hạ Chúa Giêsu gần như lối trình bày cuộc sinh hạ Môisen mà ông nghe kể lại ở thời ông, Mt muốn bảo (điều này phù hợp với tất cả phần còn lại của Tin mừng ông) Chúa Giêsu là Môisen mới và dù đấy là Đấng Messia thiên hạ mong chờ vì người Do thái, dựa trên bản văn Đnl 18,18, đã chờ đợi Đấng Messia như một Môisen mới .

Sau cùng văn thể đoạn văn tổng hợp nhiều yếu tố chung của não trạng Kinh thánh, não trạng Do thái giáo và não trạng lương dân. Văn chương thời ấy thích dùng các hình ảnh có liên hệ với việc sản sinh của các nhân vật quan trọng, chẳng hạn hình ảnh ngôi sao. Như ta thấy đêm Abraham chào đời đã được một ngôi sao đánh dấu. Các "ông lớn" của thế giới Hy la đều có vì sao hộ mệnh: Alexanđre, Augustô . . . Thế thì tại sao Chúa Kitô lại chẳng có ngôi sao riêng của Người ? Nhưng đây cũng vẫn còn là một cách nói gần đồng nghĩa với thành ngữ hiện đại: "sinh nhằm sao chiếu mệnh tốt". Đối với người phương Đông thời đó, việc khám phá ra một ngôi sao mới không chỉ có nghĩa là lời loan báo về một cuộc sản sinh  không còn hơn nữa, như các Targums (các bản dịch Cựu ước ra tiếng Aram sau thời lưu đày) đã làm chứng. Còn đối với con người của Thánh kinh, trong thời Chúa Kitô, thì ngôi sao của những sứ giả Chúa dùng để thi hành một vai trò trong lịch sử cứu rỗi. Giai thoại ngôi sao của Giacóp (Ds 24,17) đã là đối tượng của nhiều lời khai triển chịu ảnh hưởng của niềm mong chờ Đấng Messia đến.

Giai thoại ngôi sao này nằm trong Thánh kinh, chỗ nói đến lúc dân Hy bá vượt qua lãnh thổ Moab, trên đường tiến về Canaan. Vua xứ đó không cho họ đi qua lại còn vời thầy bói Balaam tới chúc dữ những tên bất hảo quấy rầy ông như thế. Nhưng Balaam không thể quyết định thốt ra lời trù ẻo dân Thiên Chúa được (Ds 22, 1-21). Hơn thế nữa, khi ông sắp chịu theo lời dụ dỗ, thì có một dấu xuất hiện nhắc nhở ông: con lừa ông cưỡi không chịu bước đi (Ds 22,22-35). Thành thử cuối cùng ông đã tuyên đọc một loạt lời chúc tiên báo vai trò mà Giuđa sẽ thực hiện (Ds 23-24).

Tác giả viết trình thuật này sống vào thời Salomon. Vì thấm nhiễm sấm ngôn gần đó của Nathan gởi cho Đavít (2V 7, 11 -14), ông đã gán cho Balaam một câu nói chứa đựng cùng lời loan báo về hậu duệ giống như trong sấm ngôn Nathan : trôi thây :một điều, nhưng không phải cho lúc này; tôi ngắm một sự nhưng không phải gần bên? một ngôi sao mọc lên từ Giacóp, một vương trượng xuất từ Israel" (Ds 24,17). Nơi khác cũng chính Balaam, thuật sĩ ngoại giáo ấy, được tác giả trình bày như là người đã nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa chân thật (x. Ds 22,31).

Vào thế kỷ II trước công nguyên, các dịch giả của bản 70 cho ta biết cách giải thích đương thời các ông về sấm ngôn vừa nói trên. "Vương trượng" trở nên "một người". Tại Qumrân thời Chúa Kitô, ngôi ta thay sấm ngôn được áp dụng vào một nhân vật thiên sai. Bản 70 còn dịch Ds 24,7 như sau :  Một hào kiệt lớn lên trong dòng dõi của người là thống trị lên những dân tộc đông đúc", khiến cho giai thoại có một tầm mức phổ quát. Thế mà Mt và các độc giả của ông đều thấm nhiễm các quan niệm vừa trình bày này.

Thành ra toàn bộ các dữ kiện vừa nói giúp quán triệt văn thể đặc thù của thánh sử. Ý định của ông thật rõ ràng: minh chứng Chúa Giêsu là một vĩ nhân, là Môisen mới và là Messia, Đấng thúc giục muôn dân tiến đến cùng người. Có tâm điểm của toàn bộ dữ kiện, ông đã đặt một lời công bố của ngôn sứ (Mca 5,13) để làm nổi bật tầm quan trọng của câu trích dẫn đó lên.

II.CÁC Ý TƯỞNG CHÍNH CỦA TRÌNH THUẬT

Như vậy tất cả mọi yếu tố của bản văn đều có thể được nghiên cứu quy hướng về Đấng Messia, để nêu lên không chỉ lý lịch mà nhất là sứ mệnh của Người, một sứ mệnh vương giả mà ta nên xem xét đặc tính, mục tiêu là cách thức mà nó được tiếp đón.

1. Đặc tính sứ mệnh vương giả của Chúa Giêsu được làm nổi bật nhờ sự tương phản với ngụy trưng mà người được đưa ra để đối đầu. "Vua dân Do thái mới sinh ra hiện  đâu?”. Các Đạo sĩ đã hỏi ông ta như thế.

Tin Mừng nói lên ý nghĩa của thành ngữ "vua dân Do thái" này nhiều lần, nhưng bao giờ cũng trong tương quan với cuộc Khổ nạn (Ga 18,33-37; 19, 19-21). Thành thử khi dùng nó trong giai thoại các Đạo sĩ, Mt muốn gợi lên mối liên hệ giữa biến cố này với cuộc Khổ nạn. Sau khi đã cho thấy Chúa  Giêsu là con Đavít, nghĩa là Đấng Messia thuộc hoàng tộc trong chương nhất, thì trong chương hai đây, thánh sử muốn minh xác tính chất thiên sai đó thuộc loại nào. Đối diện với  của Hêrôđê đang truy nã, Chúa Giêsu xuất hiện như vì vua khiêm tốn, bắt đầu đáp ứng điều mà Người Tôi tớ thống khổ đã loan báo về Người (Is 53): thiên sai tính (hay vương quyền) của Người là bất khả phân ly với thập giá. Địa điểm Người giáng sinh còn củng cố khía cạnh này hơn nữa: Bêlem là một thị trấn nhỏ bé chứ không phải là thành phố lớn sầm uất.

2. Mục tiêu sứ mệnh Chúa Giêsu là quy tụ trong hiệp nhất một dân mới gồm những lương dân mà Thiên Chúa đã mặc khải cho.

Cái ý tướng "Quy tụ dân mới trong hiệp nhất" thấy rõ qua cách thức Mt sửa đổi câu trích dẫn mà ông đặt ở trung tâm trình thuật (c.6) ông sửa lại tiểu tiết: lấy chữ Bêlem thay thế chữ Ephrata và đổi chữ "nhỏ nhất" thành "không phải là nhỏ nhất". Điều này rõ ràng biểu lộ ý định minh nhiên hóa vai trò của Bêlem, nơi đã xảy ra biến cố. Nhưng nhất là ông đã sửa câu trích dẫn Mica : " . . . vị có mệnh thống lĩnh sơn hà Israel" thành vị thủ lĩnh, kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta". Để hiểu ý hướng biểu lộ qua việc thay đổi này, ta phải nhìn lại cuộc ly khai xảy ra sau khi Salomon mất. Lúc ấy xảy ra cảnh phân chia đất nước mà toàn dân không bao giờ quên. Họ vẫn  luôn mơ ước ngày tái hợp: 300 năm sau. Giêrêmia nói đến điều này rõ ràng lắm (Gr 3, 18; 33, 1-13); các ngôn sứ hậ u lưu đày, 100 năm sau nữa, cũng còn nói lại trong một sấm ngôn được ráp vào sau sấm ngôn Giêrêmia (Gr 33,14-26). Sau cùng, người ta đã đi đến chỗ chờ đợi Đấng Mcssia đến thực hiện mộng ước đó.

thành thử Mt đã đi từ ý niệm dân tộc sang ý niệm chư  dân hầu nói rõ Chúa Giêsu sinh ra là để thực hiện vai trò thống nhất trên mà thực tế là làm vua vũ trụ. Ông diễn tả điều này qua hình ảnh vị thủ lĩnh chăn dắt nghĩa là hình ảnh vua theo cách nói đương thời. ". . . Giuđa, vì từ ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lĩnh kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta" (c.6).

Và dân mới hình thành bởi dân ngoại đó đã được Chúa Giêsu đến mặc khải Thiên Chúa cho. Ta thấy điều này nhờ hai nhận xét.

trước tiên là việc Mt áp dụng lời loan báo của Isaia liên quan đến chuyện muôn dân tiến về ánh sáng (Is 60,3-7). Trong lúc nhà ngôn sứ tiên đoán họ tiến về Đấng Messia ngự ở Giêrusalem, thì Mt cho thấy Người được kính bái ở bêlem ngoài thành. Cũng vậy, thánh sử nói Chúa Giêsu sau khi từ Ai cập về đã đến Galilê" (2,22) “Vùng đất của lương dân" (4,15). Các tiểu dị này cho thấy ông có ý định làm nổi bật phổ quát tính của sứ mệnh Chúa Giêsu.

Tiếp đến là ngôi sao là ông dành cho một chỗ quan trọng. Ta nhận thấy là trong bản văn, ngôi sao luôn được đề cập gần với nơi nói về Hài nhi (cc.2.7.8.9.10), điều này rốt cuộc cũng là nhấn mạnh đến ý nghĩa biểu trưng của yếu tố đó. Ngôi sao mà sấm ngôn Balaam nói đến đã chuẩn bị cho biểu tượng của Chúa Giêsu, và nhà Đạo sĩ đã nhận ra Thiên Chúa chân thật là một điềm tiên báo sứ mệnh Chúa Giêsu, sứ mệnh dẫn dắt lương dân nhận biết và thờ lạy Người.

3. Còn việc tiếp đón sứ mệnh vương giả của Chúa Giêsu thì đòi hỏi nhiều dấu chỉ và dữ kiện, vì sứ mệnh này quá mơ hồ và khiêm tốn.

Ba dấu chỉ cần thiết đối với “mặc khải" Chúa Giêsu đem đến. Đầu tiên là một biến cố thiên nhiên mà hoàn cảnh bắt ta phải suy nghĩ: trong trường hợp này là một ngôi sao. Kế đến là Thánh kinh, vì Thánh kinh cung cấp nhiều chi tiết về vị Chúa tể các biến cố: Ngài không phải là một hữu thể đóng kín, nhưng là một Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử của một

dân và tự mặc khải xuyên qua lịch sử dân đó nhờ sự trung thành với kế đồ cứu rỗi nhân loại của Ngài. Sau cùng, dấu chỉ tuyệt hảo là chính Chúa Giêsu. Người chính là Lời, là mặc khải viên mãn của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, để có thể nhận ra các dấu chỉ này, cần phải có một số dữ kiện. Các nhân vật được trình bày trong bản văn đã phản ứng khác nhau vì có dữ kiện khác nhau. Trước hết các Đạo sĩ, những người dù thông thái uyên bác, cũng đã lên đường học hỏi và cho biết mình sẵn sàng yết bái", nghĩa là sẵn sàng thừa nhận Chúa. Vì thế dọc đàng họ thấy được các dấu chỉ khác nhau mà sau cùng là chính Chúa Ciêsu. Tiếp đó là Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, vốn cũng xao động nhưng hoảng hốt, nghĩa là cũng đã nhạy cảm đối với điều Thánh kinh nói trồi, song là để phản ứng ngược lại với sứ điệp của Thánh Kinh. Sau cùng là các thượng tế và ký lục, nhưng nhà thông thái hiểu nhiều về tôn giáo, nhưng chỉ biết lặp lại bài học cách máy móc chứ vô cảm trước sứ mệnh và không động đậy gì.

III. NỀN TẢNG LỊCH SỬ CỦA TRÌNH THUẬT

Sau khi biết trình thuật đã được sáng tác phần lớn và rằng nó đã lấy nhiều yếu tố từ môi trường chung quanh đương thời, ta có thể tự hỏi rằng phải chăng đây chỉ là một giáo huấn Mt biên soạn ra mà không có nền tảng lịch sử vững chắc?. Trong tình trạng kiến thức hiện thời, các nhà chú giải quả chưa có đủ sức vạch một đường phân giới giữa biến cố và trình thuật về biến cố trong nhiều trang Tin mừng, mà có lẽ nhất là ở đây.

1.Trước tiên chính là việc đặt trình thuật do Mt biên soạn vào trong bối cảnh lịch sử của cuối thế kỷ thứ nhất. Như  văn chương thời bấy giờ làm chứng, ảnh hưởng của các đạo sĩ ở thế kỷ 1 ngày càng gia tăng. Vai trò của họ có tính cách chính trị lẫn tôn giáo. Đặc biệt họ có thẩm quyền giải thích các biến cố dị thường, vì lúc ấy khoa chiêm tinh chiếm một chỗ đứng chắc chắn trong các phương thuật họ sử dụng. Giới đạo sĩ này đều có mặt trong mọi triều đình vùng Cận Đông, đặc biệt là các xứ ở phía đông.

Còn việc lặn lội đi xa để bái yết một vì vua nào đó thì tất thường thấy đương thời. Như vào dịp lễ khánh thành thành phố Xêdarê, các thân hào nhân sĩ của cả phương Đông đã đổ xô về Palestin; như cả một phái đoàn của vua Tiridate xứ Armêni đã rầm rộ đến Rôma dự lễ đăng quang của Nêron, và như hoàng hậu xứ Abilène đã đi thăm hữu nghị Giêrusalem quãng năm 40-50. Rồi trong những trường hợp như thế, phục mình xuống trước hoàng đế là chuyện thường tình.

Khi biết rằng các Kitô hữu, mà Mt muốn ngỏ lời, xuất thân từ Do thái giáo và làm nên một cộng đoàn trong đó có sự tranh chấp (vì họ cũng đón vào cộng đoàn những người lương dân tòng đã từng dùng ma thuật và phải đương đầu vai lời chỉ trích của các phần từ biệt phái), ta sẽ hiểu được toàn bộ môi trường lịch sử-văn chương trong ấy phát sinh ra trình thuật về các Đạo sĩ Tác giả một cách nào đó muốn nói: "Hãy nhận ra trong sự kiện lương dân trở lại mà anh em đang chứng kiến đây dấu thực hiện sấm ngôn Balaam đã tuyên hố về Đấng Messia". Bấy giờ ông biên soạn một trình thuật bi thảm. Hồi hộp và để lộ nhiều ảnh hưởng của các trình thuật đương thời. Tất cả các chi tiết mà ông sắp xếp cách khéo léo mang tính cách văn thể trơn là tài liệu.

2. Tuy nhiên không hẳn là ông đã phịa ra tất cả vì đằng sau đoản khúc sáng tác này, ta có thể nêu lên nhiều điểm có tính cách lịch sử mà ông đã dựa vào và đã lấy từ truyền thống.

Chúa Giêsu đã sinh ra ở Bêlem. Ít nhất có ba lý do cho thấy sự kiện là chắc chắn. Trước tiên dây là một dữ kiện mà thánh sử luôn nhấn mạnh (cc. 1.5.8. 16). Thứ đến nó trùng hợp với  Lc là người dầu sao cũng độc lập và khác Mt về nhiều điểm. Cái khiến cho họ nhất trí, chính là vì sự kiện đã xẩy ra thực. Sau cùng, tác giả Tin mừng thứ nhất, trong toàn bộ trình thuật về thời Thơ ấu của Chúa Giêsu, tỏ ra đã điều nghiên kỹ lưỡng về tất cả những gì liên can đến Giuse: ông đã sử dụng các nguồn liệu đến từ Bêlem, quê quán của Giuse, là những nguồn liệu hẳn tường thuật lại những gì đã xảy ra ở thị trấn đó.

Về Hêrôđê thì ba lần tên ông được nhắc đến ở đây  (và bốn lần trong phần còn lại của chương) là bằng chứng cho thấy ông có chỗ đứng quan trọng trong các kỷ niệm về cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu.

Mt xác định biến cố xảy ra một thời gian ngắn trước khi “ông chết" (cc. 19.20). như người ta biết, Hêrôđê đã mất vào năm 4 trước công nguyên, sau nhiều tháng đau nặng không thể thi hành chức vụ, nên có lẽ Chúa Giêsu đã sinh ra vào quãng 6 trước công nguyên, vì dựa vào số tuổi các trẻ bị tàn sát (2,16), thì việc sinh hạ Chúa Giêsu đã xảy ra từ 0 đến 2 năm  trước đó .

Điều ta biết được về ông vua này nhờ lịch sử, cho thấy chân dung mà Tin mừng họa về ông là đúng sự thật : suốt thời trị vì, ông luôn bị ám ảnh sợ mất vương quyền mà người Rôma đã tạm thời trao cho ông. Vì nghĩ rằng quanh mình chỉ toàn những âm mưu, ông đã đi đến chỗ ra lệnh giết ba người con trai, mà vợ và ngay cả người đàn bà ông thương mến nhất. Thế mà vào thời ông, niềm hy vọng về triều đại Đavít như bừng sống lại vì sự thất bại thê thảtn của nhà Asmonêo, hậu duệ của Macabê. Người ta cũng biết Hêrôđê đã bắt đầu sự nghiệp với chức trấn thủ xứ Galilê, nơi ông đã đàn áp các phong trào quốc gia trong đó có mặt con cháu của Đavít.

Cuối cùng là "các Đạo sĩ tự phương đông đến" (c.1) và "ngôi sao họ đã thấy mọc lên (bên trời đông)" (c.2). Chúng ta đã đề cập đến ý nghĩa các chi tiết này. Nhưng xét về phương diện lịch sử, thì điều gì đã có thể xảy ra? Có lẽ là một sự kiện nhỏ bé lắm, vì vào thời sứ vụ Chúa Giêsu, chẳng ai (ngoài Maria và Giuse) nhớ lại các biến cố đã xảy ra quanh cuộc giáng sinh của Người, ngay cả chuyện người đã sinh ra ở Bêlem (Ga 7,14). Vẫn biết giữa Do thái và Ba tư đã có nhiều tiếp xúc gặp gỡ nhờ nhóm người Do thái ly hương ở Mêsôpôtamia, và trong toàn thế giới cổ thời đã dấy lên một niềm hy vọng thiên sai theo nghĩa rộng, như bài Mục ca thứ tư  của Virgile làm chứng. Tuy nhiên thành ngữ "tự phương Đông" phải chăng ám chỉ xứ Ba tư  không chắc. Vì nó cũng có thể chỉ vùng Transjordanie (Moab) Nhưng khi thánh sử nói họ "tự phương Đông đến", có thể ông đã khuếch đại sự việc bằng một cách thức có thể giải thích. Trong hy nghĩ, cùng một chữ anatolé có thể dịch là "mọc lên" (à son lever ) và "bên trời Đông" (au Levant). Do sự kiện tất cả dều bắt nguồn từ việc "ngôi sao mọc lên" (lever de lastre), nên có thể, vì chơi chữ, người ta đã đổi "mọc lên" thành "trời Đông".

3. Thành thử có lẽ biến cố chỉ là một cái tin, thấu đến tai các đạo sĩ thuộc triều đình Hêrôdê liên quan đến những suy cứu nơi người Do thái về ngày giờ giáng sinh của Đấng Messia. Thật vậy, các cuộc khám phá ở Qumrân trong những năm gần đây có tiết lộ cho biết một yếu tố mới: tứ vi của Đấng Messia thiên hạ mong chờ. Để xác định sao nào sẽ loan báo cuộc sinh hạ của Đấng Messia, nhiều người Do thái đã bắt đầu cậy đến khoa chiên tinh, là việc cho đến lúc bấy giờ chỉ  có nơi người ngoại giáo. Thành thử có thể chỉ cần vài tư tế Do thái, được thụ giáo loại nghiên cứu này, khám phá ra một vì sao mà trước đây họ chưa biết, là đủ để họ tin rằng Đấng Messia đã giáng sinh, vì họ đang nôn nóng chờ mong Người. Tóm lại, vì thánh sử không có ý cho biết rõ điểm này, nên tốt hơn hãy nhìn nhận là không bao giờ xác định nó được. Dầu sao có thể trả lời cho kẻ tò mò rằng: điều tối thiểu ta có thể nói là đã xảy ra một cái gì đó mặc khải cách đặc biệt sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì toàn bộ cuộc biến động này, làm điểm nổi bật nhất là việc tàn sát có thực trong lịch sử đối với các hài nhi vô tội, đã xảy ra trong quãng thời gian hai năm lúc Vua Ciêsu âm thầm giáng sinh.

IV. SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT

Sứ điệp mà giai thoại các đạo sĩ muốn chuyển đạt giờ đây trở nên dễ thấy. Chủ yếu, nó được gởi tới các cộng đoàn Kitô hữu đang bị khủng hoảng đau đớn khi tiếp nhập vào trong lòng mình những phần tử phát xuất từ một thế giới khác với thế giới của họ.

Điều mà các cộng đoàn phải sống đã được Chua Kitô  sống ngay từ lúc chào đời rồi. Mới sinh ra Người đã là Vua, nhưng là Vua một cách khiêm tốn, ẩn dật, gian khổ, như để tiên tráo cuộc Khổ nạn người sẽ phải chịu. Người đến lôi kéo và giục lên đường những kẻ mà, qua các yếu tố tự nhiên biến cố đang tìm ánh sáng cho cuộc đời, nhờ vào khoa học, kỹ thuật là ngay cả ma thuật của họ. Người cũng đến cho những kẻ quy mọi cái vào chính trị của họ, đến độ trở thành độc tài, áp chế, và cho những ai đặt tuyệt đối vào trong các hệ thống tư tưởng hay lễ nghi tôn giáo.

Người muốn biến tất cả họ thành một dân được quy tụ trong hiệp nhất mà từ đây không còn dấu vết chia rẽ nữa.

Đối với tất cả những ai niềm nở đón tiếp. Người chiếu ánh sáng và mặc khải Thiên Chúa cho. Người bết cách tỏ mình và kêu lên thái độ tôn thờ, mà không nhất thiết là mọi người có thể nhìn thấy, nơi nhiều kẻ thuộc đủ quốc gia, xã hội, văn hóa, tôn giáo, chính trị, lắm kẻ ngoại, mà bề ngoài xem ra như chẳng biết tôn thờ Người phải cách vẫn có khả năng vượt lên trên các giá trị nhân loại của họ và sẵn sàng dâng hiến chúng cho Người.

Thảm kịch là ở chỗ : trong số những kẻ bên ngoài xem ra gần người nhất, hiểu rõ lời người nhất lại có nhiều kẻ phủ nhận Người khi Người tỏ mình ra cách cụ thể. Cái quan trọng không phải là biết, mà còn là lên đường. Nghĩa là dám liều sống điều mình biết, dám vượt qua kiến thức bên ngoài để được nhìn thấy bên trong.

Con đường đức tin bao giờ cũng dài và đầy hiểm trở. Nó nhất thiết có ba thành tố: tìm hiểu ý nghĩa các biến cố đang sống, xem chúng liên lạc với Thánh kinh như  thế nào và tìm cách gắn bó với con người Chúa Giêsu. Thành tố thứ nhất là thành tố quyết định, nhưng một đức tin toàn vẹn không thể thiếu hai thành tố kia. Sau khi đã dứt khoát đi qua giai đoạn nhập ngôn và đức tin, còn phải không ngừng "dừng chân" để suy niệm Kinh thánh và thờ lạy, bằng không sẽ lui về thái độ ngoại giáo đơn thuần.

Gilles Becquet, Lecture d'évangiles

poul les dimanches ét rêtes année B, tr. 130-143

Ý TƯỞNG BÀI GIẢNG

1.Bài Tin Mừng hôm nay đặt ta trước hai thái độ của nhtĩng người đói khát ơn cứu rỗi và dùng mọi phương tiện, hy sinh tất cả để tìm gặp nó. Và thái độ của những kẻ sợ phải mất mát, thiệt thòi, dấn thân trong việc tìm gặp Đấng ban ơn cứu rỗi. Cuối chặng đường tìm kiếm, những người trước được niềm vui (2,10) khi khám phá ra Đấng Cứu Thế, còn những kẻ sau lại trở nên thù nghịch với Người. Chúng ta sẽ là hạng gan dạ tìm kiếm, hay là Hêrôđê và dân Giêrusalem tự mãn, mù quáng trước những dấu chỉ thời đại, những lời mời gọi của Thiên Chúa gởi đến trong cuộc sống?

2. Các chuyên viên thần học Thánh Kinh của Israel đã trả lời vanh vách về thời gian, không gian của việc Đấng Cứu Thế chào đời. Họ giải thích, trích dẫn cho người khác Lời Chúa, thế nhưng lòng họ không chút nảy may cảm kích để lời Chúa đánh động tâm hồn họ. Đáng ra họ phải hướng dẫn các nhà đạo sĩ lên đường đi Bêlem tìm gặp và thờ lạy Chúa. Phải chăng đó cũng là tình trạng của ta hiện nay trong xã hội ?

3. Để dẫn dắt nhân loại, Thiên Chúa đã dùng một số phương thế: lửa trong bụi gai đối với Môisen (Xh 3,2). Ang mây cột lửa đối với người Hy bá (Xh 13,21), ngôi sao đối với các nhà đạo sĩ. Hôm nay, Ngài dùng Thánh kinh, giáo huấn Giáo hội, nhiệm tích, giới luật, lời giảng dạy khuyên bảo các chủ chăn, cha mẹ, bạn bè . . .trong đêm tối cuộc đời, ta có biết thường xuyên chạy đến bật các "nút điện" đó không?

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
LỊCH XỬ GIÁO XỨ
Giáo xứ Sông Hinh gồm có 550 giáo dân,tách ra từ giáo xứ Tịnh Sơn khoảng 10 km. Theo báo cáo hành chánh năm 2010 của tỉnh Phú Yên, Sông Hinh là huyện miền núi nằm về phía Tây Nam tỉnh Phú Yên, diện tích rừng tự nhiên 886 km2, gồm 10 xã và 01 thị trấn với 82 thôn, buôn, khu phố; dân số của huyện khoảng 43.637 người. Trong đó, dân tộc kinh 23.224 người chiếm 53, 22 % còn lại là dân tộc thiểu số chiếm 46,78 %. Địa hình kéo dài nằm ven dọc Hồ Thuỷ điện Sông Hinh bao quanh là các xã, thị trấn cách vị trí trung tâm, có xã xa nhất khoảng 30 km, địa hình đồi núi, phức tạp giao thông đi lại khó khăn.
Thống kê
  • Đang truy cập87
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm84
  • Hôm nay5,410
  • Tháng hiện tại207,779
  • Tổng lượt truy cập15,494,669
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây