THÁNH LỄ CUNG HIẾN NHÀ THỜ SÔNG HINH

Chúa Nhật 4 MC: CGS là Nguồi Ánh Sáng

Thứ bảy - 25/03/2017 20:41

Chúa Nhật 4 MC: CGS là Nguồi Ánh Sáng

Ánh sáng là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho con người và vũ trụ. Không có ánh sáng, trái đất này sẽ chìm ngập trong tối tăm và băng giá, các sinh vật không thể phát triển được. Ánh sáng giúp cho con người có thể nhìn rõ đường đi và nhận ra mọi vật. Ngoài ánh sáng theo nghĩa vật lý, con người còn cần những ánh sáng khác như ánh sáng của trí tuệ và khoa học giúp con người có thể hiểu biết cách đúng đắn hơn. Nhưng con người còn cần một thứ ánh sáng đặc biệt hơn đó là ánh sáng đức tin, ánh sáng này giúp con người nhìn thấu mọi vật, mọi biến cố, nhất là giúp con người nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong vũ trụ.
CHÚA GIÊSU LÀ NGUỒN ÁNH SÁNG
Ánh sáng là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho con người và vũ trụ. Không có ánh sáng, trái đất này sẽ chìm ngập trong tối tăm và băng giá, các sinh vật không thể phát triển được. Ánh sáng giúp cho con người có thể nhìn rõ đường đi và nhận ra mọi vật. Ngoài ánh sáng theo nghĩa vật lý, con người còn cần những ánh sáng khác như ánh sáng của trí tuệ và khoa học giúp con người có thể hiểu biết cách đúng đắn hơn. Nhưng con người còn cần một thứ ánh sáng đặc biệt hơn đó là ánh sáng đức tin, ánh sáng này giúp con người nhìn thấu mọi vật, mọi biến cố, nhất là giúp con người nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong vũ trụ. 
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa các cách nhìn: Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của con người. Con người thường nhìn nhau và đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài: xem mặt mà bắt hình dong. Họ đánh giá nhau theo cảm tính, theo quần áo hoặc theo những ấn tượng chủ quan. Nhưng Thiên Chúa nhìn theo cách khác, Ngài nhìn thấu con người, Ngài không đánh giá con người theo dáng vẻ hay vóc dáng, nhưng nhìn thấy những tâm hồn đơn sơ, chính trực. 
Lúc bấy giờ, Chúa sai tiên tri Samuel đến nhà ông Giêsê để xức xầu cho một trong các con trai của ông này lên làm vua Israel. Đến nơi, Isaia toan chọn những đứa con có vóc dáng to cao, tướng mạo oai phong, nhưng Thiên Chúa nói với Samuel: Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó. Thiên Chúa không chọn những người đó, nhưng lại chọn một người nhỏ bé, rốt kém trong các con của Giêsê, đó là cậu trai út có tên là Davit. Cậu này là trai út trong nhà, hầu như không được mọi người quan tâm. Khi cậu bé đi chăn chiên ngoài đồng trở về, vừa trông thấy cậu, Chúa phán với Samuel: Đứng dậy, xức dầu tấn phong cho nó. Chính nó là người ta chọn. Samuel đã xức dầu cho cậu bé trước sự ngạc nhiên của mọi người, trong khi cậu bé vẫn chưa hiều điều gì đang xảy ra.
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một thứ ánh sáng khác, đó là ánh sáng đức tin. Ánh sáng này không tùy thuộc vào mặt trời, cũng không tùy thuộc sự nhắm mắt hay mở mắt thể xác, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào con mắt của tâm hồn. Có những người mắt tuy mở, nhưng vẫn không nhìn thấy, trái lại, nhờ ánh sáng đức tin, có người tuy mù lòa, nhưng con mắt đức tin lại được sáng. Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh hôm nay cho thấy, có những người được mở mắt để đón nhận ánh sáng đức tin, còn có những người tuy mở mắt nhưng vẫn mù loa tăm tối.
Chúa Giêsu và các môn đệ gặp một người mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên đường. Cái nhìn của các môn đệ và cũng là của người Do Thái cho rằng: Anh mù này như một kẻ tôi lỗi, đáng trách hơn là đáng thương. Các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: Anh này bị mù do lỗi của anh hay lỗi của cha mẹ anh? Cái nhìn của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài nhìn thấy nơi anh là một con người đáng thương, cần sự cứu giúp. Ngài trả lời các môn đệ: Không phải do anh, cũng không phải do cha mẹ anh, anh ta bị mù lòa là để thiên hạ được nhìn thấy công trình của Thiên Chúa muốn thể hiện nơi anh. 
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho mắt anh mù được thấy và cũng là để mở mắt cho những người chứng kiến phép lạ. Trước hết, Ngài xức bùn vào mắt anh mù và sai anh đi rửa tại hồ Silôê. Anh đã tin vào lời của Thầy Giêsu, đã rửa và được sáng mắt. Anh tin Ngài trước hết là một Đấng quyền năng và tin nhận Ngài là Ngôn sứ, tức là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo. Lần đầu tiên bị tra hỏi Ai chữa mắt cho anh? Anh trả lời: Ngài đã thoa bùn vào mắt tôi và đã sai tôi đi rửa và tôi đã thấy. Lần thứ hai bị tra hỏi: Anh nghĩ gì về người đó? Anh đã trả lời: Người là một vị Ngôn sứ. Lần thứ ba bị tra vấn, anh đã tuyên xưng cách rõ ràng hơn về Chúa Giêsu: Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không chịu nghe. .. Xưa nay chưa có ai mở mắt người mù từ khi mới sinh nếu người ấy không phải bởi Thiên Chúa mà đến. Khi gặp lại anh Chúa Giêsu đã hỏi anh: Anh có tin vào Con Người không? Anh đã công khai tuyên xưng: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu. 
Anh mù trong câu chuyện đã được mở mắt thể lý, để nhìn thấy ánh sáng và thấy mọi người, anh còn được mở mắt đức tin để nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu thế. Ngược lại, những ngươi biệt phái tuy mắt vẫn mở, nhưng phải sống trong sự tăm tối mù lòa không nhận biết Chúa Giêsu bởi vì họ cứng lòng tin. Anh mù được sáng bởi vì anh đã để cho Chúa Giêsu đụng chạm đến trái tim và tâm hồn của anh, còn những người biệt phái đã kiêu căng đóng cửa lòng, khiến họ không đón nhận được ánh sáng đức tin. 
Tâm hồn của những người biệt phái đã chứa đầy bóng tối của sự kiêu căng, cố chấp, khinh bỉ kẻ khác, khiến cho ánh sáng đức tin không thể đi xuyên qua được. Chúa Giêsu đã nói với họ: Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù; những kẻ cố chấp, nhất định từ chối ánh sáng của Thiên Chúa sẽ phải chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: Nếu các ông bị mù thì các ông không có tội nhưng các ông nói: Chúng tôi thấy, nên tội các ông nặng hơn.
Thế giới ngày nay bị xen lẫn giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng của sự thật, công lý dường như bị bóng tối của sự ác gian dối và bất công vây bủa; ánh sáng của đức tin dường như bị che khuất bởi vật chất và các lối sống hưởng thụ. Có nhiều người muốn tránh né ánh sáng sự thật, bởi vì họ sống và làm việc trong gian dối; nhiều người sống trong u mê nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ đức tin  và Giáo Hội. Nhiều người khác bị bao phủ bởi bóng tối của các luận điệu tuyên truyên xuyên tạc, các quan điểm vô thần, lối sống tự do, khiến họ đi lạc trong bóng tối tội lỗi. Mỗi chúng ta có bổn phận phải trở nên chứng nhân của sự sáng, bằng cách sống và thực hành theo chân lý, sống thật, nói thật, và hành động theo sự thật. Chúng ta còn cần phải đào sâu và học hỏi về giáo lý, để đức tin của mỗi người ngày càng tinh ròng và vững mạnh hơn và có thể tỏa sáng đến người chung quanh.
Nhiều người tuy chưa hẳn sống trong bóng tối, nhưng sống trong bóng mờ, khiến cho đời sống và hành động của họ trở nên mờ ám, thiếu sức sống. Đời sống gia đình của họ bị bóng tối của bất hạnh, cãi vã giận dỗi bao trùm, khiến cho gia đình trở nên tối tăm ngột ngạt. Các cha mẹ cần mạnh dạn khai sáng lại đời sống đức tin và các thực hành đạo đức trong gia đình, như việc tham dự thành lễ, các giờ kinh tối, các bữa ăn chung cần được tái lập, để có thể xua đi những bóng mờ bóng tối trong gia đình.
Khi lãnh Bí tích Rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi bóng tối của ma quỷ và tội lỗi, đã trở nên con cái của ánh sáng. Chúng ta không thể để mình rơi trở lại bóng tối, làm nô lệ cho bóng tối, nhưng xin cho chúng ta biết mở toang cánh cửa tâm hồn, để cho ánh sáng tin Mừng và tình thương của Chúa Giêsu chiếu tỏa. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống và hành động như giữa ban ngày, xin Ngài loại bỏ khỏi ta những ngóc ngách tối tăm, nhưng hành động mờ ám, để ta sống đúng tư cách là con cái ánh sáng. Amen. 

Nguồn: Linh mục Giuse Đỗ Đức Trí – Gp Xuân Lộc
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://giaoxusonghinh.org là vi phạm bản quyền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
LỊCH XỬ GIÁO XỨ
Giáo xứ Sông Hinh gồm có 550 giáo dân,tách ra từ giáo xứ Tịnh Sơn khoảng 10 km. Theo báo cáo hành chánh năm 2010 của tỉnh Phú Yên, Sông Hinh là huyện miền núi nằm về phía Tây Nam tỉnh Phú Yên, diện tích rừng tự nhiên 886 km2, gồm 10 xã và 01 thị trấn với 82 thôn, buôn, khu phố; dân số của huyện khoảng 43.637 người. Trong đó, dân tộc kinh 23.224 người chiếm 53, 22 % còn lại là dân tộc thiểu số chiếm 46,78 %. Địa hình kéo dài nằm ven dọc Hồ Thuỷ điện Sông Hinh bao quanh là các xã, thị trấn cách vị trí trung tâm, có xã xa nhất khoảng 30 km, địa hình đồi núi, phức tạp giao thông đi lại khó khăn.
Thống kê
  • Đang truy cập166
  • Máy chủ tìm kiếm22
  • Khách viếng thăm144
  • Hôm nay19,430
  • Tháng hiện tại231,208
  • Tổng lượt truy cập13,246,461
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây